Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 13/12/2011 20:41 (GMT+7)

Hiện trạng khai thác cát trắng vùng Quảng Nam – Thừa Thiên – Huế và Định hướng phát triển bền vững

Khu vực Quảng Nam- Thừa Thiên - Huế là nơi có tiềm năng cát trắng tương đối lớn của Việt Nam ; trong thời gian qua, việc khai thác cát trắng đã góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế của khu vực. Tuy nhiên, bên cạnh đó vấn đề bảo vệ môi trường, tận thu tối đa tài nguyên khoáng sản trong khu vực đang là những vấn đề bức xúc, cần phải có biện pháp giải quyết.

1. Hiện trạng khai thác cát trắng khu vực Quảng Nam – Thừa Thiên – Huế

Khu vực Quảng Nam - Thừa Thiên - Huế thuộc vùng Trung Bộ, Việt Nam, gồm tỉnh Thừa Thiên - Huế, thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Đây là khu vực tương đối phong phú về khoáng sản như vàng, titan, thiếc, urani, kaolin, đá vôi xi măng, cát thủy tinh, kaolin, felspat, đá sét, nước khoáng… Theo các tài liệu hiện có, tỉnh Thừa Thiên - Huế có tài nguyên dự báo khoảng 55 triệu tấn cát, tập trung nhiều ở huyện Phong Điền, phân bố thành các doi, bãi cát, hoặc dải cát có chiều dài từ 1 - 5 km (cá biệt tới 10 km như dải cát ở xã Điền Hòa, huyện Phong Điền), rộng 400 - 850 m, chiều dày 3 - 6m. Tại tỉnh Quảng Nam, tài nguyên cát dự báo khoảng 5 triệu tấn, quy mô các mỏ tương đối nhỏ; riêng thành phố Đà Nẵng trữ lượng cát không nhiều và quy mô các mỏ cũng không lớn.

Cát khu vực Quảng Nam - Thừa Thiên - Huế có độ hạt chủ yếu từ 0,25 mm đến 0,5 mm chiếm 41,53%; nếu tính từ 0,1 mm đến 1,0 mm chiếm tới 81,43%. Hàm lượng % trung bình của các hợp phần SiO 2là 99,18, TiO 2là 0,041, Al O 3là 0,043; Fe 2O 3từ 0,028 đến 0,042 trung bình là 0,035. Sau tuyển, rửa và khử từ, hàm lượng các thành phần có hại giảm, loại bỏ được các tạp chất bám quanh, cụ thể là: cát hạn mịn (<0,5mm) có hàm lượng % trung bình SiO 2là 99,70, TiO 2là 0,03, Fe 2O 3là 0,019, Al 2O 3là 0,036, CaO là 0,013, Na 2O là 0,018. Về khả năng chịu nhiệt, cát khu vực này có thể chịu được nhiệt độ tới 1500 oC. Với các thông số như trên, có thể khẳng định, cắt trắng trong khu vực hoàn toàn đáp ứng được các yêu cầu của nhiều lĩnh vực sản xuất như: thủy tinh, công nghệ đúc, thủy tinh pha lê, gương, bóng đèn; ngoài ra có thể sản xuất dinat cho luyện kim, sản xuất đồ gốm mỏng.

Hiện nay, các đơn vị được Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp giấy phép khai thác đang triển khai khai thác theo phương pháp thủ công kết hợp bán cơ giới trong tất cả các khâu như xúc bằng máy, chuyển cát nguyên khai bằng ô tô đến khu vực tuyển, từ đó cát được máy gạt vào máng cập liệu hoặc xúc thủ công vào hệ thống vít xoắn. Mỗi đơn vị sử dụng từ 1 - 2 máy xúc, 3 - 5 ô tô tải hạng trung, 3 - 5 máy bơm nước, 2 - 3 cụm vít xoắn; lực lượng lao động khoảng 50 - 70 người.

Hầu hết, các đơn vị đều mới tham gia vào hoạt động khai thác cát, quy mô đầu tư vừa và nhỏ, mức độ chuyên môn hóa chưa cao, sử dụng công nghệ, máy móc đơn giản. Sản lượng khai thác chỉ khoảng 400.000 tấn cát nguyên khai/năm. Đa số các đơn vị đều chưa có chiến lược lâu dài để mở rộng sản xuất, chưa quan tâm đến việc đầu tư sản xuất các sản phẩm từ nguyên liệu cát, do đó giá trị tài nguyên chưa được gia tăng nhiều. Đặc biệt, với thực trạng về nhu cầu sản xuất, tiêu thụ cát trắng hiện nay chưa cao, trong khi lưu trữ mỏ được cấp giấy phép tương đối lớn và điều kiện khai thác tương đối đơn giản đã dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không quan tâm đầu tư thiết bị hiện đại để khai thác triệt để tài nguyên; khoáng sản được khai thác theo hình thức “cuốn chiếu” theo từng khoảnh khai tác. Bên cạnh đó, chiều sâu phân bố mà chỉ khai thác một lớp mỏng ở phía trên (khoảng từ 1 - 2m) sau đó chuyển sang khoảnh khác để khai thác do không muốn đầu tư thêm thiết bị để đào sâu đáy mỏ hay phải đầu tư thêm thiết bị thoát nước đáy mỏ… Đây là một trong những hoạt động trực tiếp gây tổn thất, lãng phí tài nguyên.

Về công nghiệp chế biến, hiện nay các đơn vị mới chỉ dừng ở mức phân loại cát theo các kích cỡ khác nhau tùy theo yêu cầu của hộ tiêu thụ sản phẩm. Một số đơn vị có đầu tư dây chuyền nghiền bột mịn cát trắng, tuy nhiên nhu cầu tiêu thụ thấp, giá thành khai thác, vận chuyển cao dẫn đến việc doanh nghiệp chưa mạnh dạn đầu tư chế biến sâu hơn nữa. Như đã nói ở trên, việc khai thác cát khá đơn giản vì vậy các tác động xấu đến môi trường chủ yếu là tiếng ồn, bụi do hoạt động của ô tô, máy bơm; phát thải nước sau tuyển là chất mùn hữu cơ, cát hạt mịn. Tuy nhiên, do cát nằm trên mặt địa hình nơi có thảm thực vật, rừng cây chắn sóng, một số nơi là vùng canh tác hoa màu của người dân địa phương nên tác động đến môi sinh là đáng kể. Để khắc phục cần có kế hoạch khai thác và hoàn thổ, trồng rừng và cây xanh, bảo đảm độ che phủ cho khu vực là vấn đề quan trọng trong tổ chức hoạt động khai thác.

Về tận thu tài nguyên, theo tài liệu điều tra, cát khu vực Quảng Nam chứa một lượng nhỏ quặng titan sa khoáng (1 - 2 kg/m 2). Vì vậy, cần thăm dò, phát hiện các khoáng sản đi kèm, khoanh diện tích chứa quặng titan để áp dụng công nghệ phù hợp nhằm tận thu loại chúng, đồng thời loại bỏ phần có hại cho sản phẩm cát.

2. Định hướng phát triển của hoạt động khai thác cát trắng tại vùng Quảng Nam - Thừa Thiên - Huế

Với nguồn tài nguyên khoáng sản ưu đãi, nguồn lao động địa phương dồi dào là một lợi thế cho phát triển bền vững với 3 mục tiêu cơ bản là:

v    Tăng trưởng kinh tế;

v    Sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên;

v    Bảo vệ môi trường; bảo đảm quyền lợi người dân trong khu vực khai thác mỏ.

Hoạt động khai thác cát diễn ra trên mặt địa hình ở khu vực cư dân ven biển hàng năm có bão, lũ, nên việc hài hòa các mục tiêu là rất cần thiết và phải được điều chỉnh theo thời gian và từng vị trí khai thác cụ thể. Kế hoạch phục hồi môi trường, nhất là trồng lại các diện tích rừng, bảo vệ khu dân cư phải đồng bộ với kế hoạch khai thác từng năm, từng giai đoạn. Việc khai thác cát tương đối đơn giản, lực lượng lao động không yêu cầu cao về trình độ, kinh nghiệm; có thể sử dụng lực lượng lao động địa phương, tại chỗ nên rất thuận lợi mở rộng sản xuất khi có thị trường ổn định. Trên cơ sở các tiêu chí phát triển bền vững và các đặc thù khoáng sản cát trên, chúng tôi đề xuất một số định hướng chủ yếu sau.

Hiện tại, đã có 5 khu vực tiến hành thăm dò cát trắng, trong đó có 4 khu vực thuộc địa bàn tỉnh Quảng Nam - Thừa Thiên - Huế. Sản lượng khai thác nêu trên cơ bản đáp ứng đủ cho nhu cầu hiện tại trong nước và một phần xuất khẩu. Tuy nhiên, sản phẩm mới chỉ dừng ở việc tuyển rửa nên gia tăng giá trị là chưa nhiều. Các mô vừa và nhỏ, lực lượng khai thác chủ yếu là người dân địa phương nên công tác quản lý, điều hành có nhiều thuận lợi, giải quyết được lao động địa phương. Qua khảo sát thấy rằng hiện tại thị trường chưa có nhu cầu tăng nguyên liệu cát, vì vậy đề xuất trước mắt giữ cũng cố tổ chức, đầu tư của các doanh nghiệp đã có hoạt động với quy mô vừa và nhỏ, đồng thời quan tâm đầu tư để chế biến cát thành các sản phẩm giá trị cao như pha lê, kính quang học,… là phù hợp.

Hiện trạng công nghệ, thiết bị khai thác tại các mỏ cát trắng còn đơn giản: xúc, chuyển bằng xe máy và tuyển rửa bằng hệ thống cụm vít xoắn nên năng suất chưa cao và nhất là chưa có chu trình khép kín từ khai thác đến tuyển rửa phân loại nên chưa bảo đảm chắc chắn được chất lượng các lô sản phẩm cát cung cấp, đồng nghĩa với việc sản phẩm cát chất lượng không ổn định, chưa có thương hiệu. Do đó, yêu cầu cải tiến, đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị là rất cấp thiết trong giai đoạn tới. Các nhà quản lý, chủ đầu tư cần phải quan tâm ứng dụng những thành tựu khoa học mới trong khai thác mỏ để đầu tư đổi mới, đồng thời có chính sách đào tạo lực lượng lao động có tay nghề, trình độ cao; mở rộng các khu vực chế biến.

Do việc khai thác cát diễn ra trên bề mặt địa hình và ở khu vực dân cư ven biển nên việc bảo vệ môi trường cần đặc biệt quan tâm. Hạn chế tối đa việc chặt phá cây chắn sóng dẫn tới hiện tượng cát bay; đồng thời bảo vệ không phá vỡ cân bằng các dòng nước ngọt phục vụ sản xuất, dân sinh trong khu vực; việc khai thác sử dụng bãi thải trong để hạn chế ảnh hưởng đến mặt địa hình; thường xuyên trồng và chăm sóc vành đai cây xanh cho khu vực. Quan tâm công tác phòng, chống thiên tai. Về tận thu tối đa tài nguyên, quặng titan có hàm lượng một vài kg/m 3là không lớn, có thể tuyển bằng nước trên cùng một hệ thống vít xoắn là một lợi thế cần được quan tâm thu hồi. Khu vực khai thác liên quan đến các khu dân cư, thuộc quản lý của các xã, huyện vì vậy yêu cầu các chủ đầu tư phải có trách nhiệm với địa phương; tham gia đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng và các nghĩa vụ tài chính liên quan.

Về chính sách, cần xem xét theo hướng tạo thuận lợi cho các đơn vị khai thác có hiệu quả, tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật, bảo đảm các định hướng của quy hoạch khoáng sản; khuyến khích thành lập các hiệp hội khai thác, chế biến cát để hỗ trợ về kỹ thuật, đầu tư, thông tin thị trường, định hướng quy hoạch cũng như tuân thủ các quy định của pháp luật.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Tài nguyên khoáng sản tỉnh Quảng Nam- Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường) năm 2005.

2. Tài nguyên khoáng sản tỉnh Quảng Nam - Thừa Thiên - Huế - Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường) năm 2005.

3. Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng ở Việt Nam đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 152/2008/QĐ-TTg ngày 28 tháng 11 năm 2008.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.