Hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn trong mạng lưới sông ngòi vùng duyên hải miền Trung
Lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn nằm trong khu vực miền Trung của đất nước, nơi có Đà Nẵng - một thành phố lớn, năng động, là trung tâm kinh tế, thương mại, du lịch của cả vùng, là đầu mối giao thông của khu vực bao gồm sân bay quốc tế Đà Nẵng, đường sắt Thống Nhất đi qua và mạng lưới đường bộ nối với phần lãnh thổ phía Bắc, phía Nam và các tỉnh vùng Tây Nguyên. Đà Nẵng còn là đầu mối giao thông đối ngoại nối nước ta với nước bạn Lào, có cảng biển quốc tế phát triển xuất nhập khẩu, cửa ngõ nối khu vực Miền Trung với thế giới qua đường hàng hải. Khu vực Trung Bộ có rất nhiều cảnh đẹp như bán đảo Sơn Trà, đèo Hải Vân, Ngũ Hành Sơn, các di sản thế giới như thánh đường Mỹ Sơn và phố cổ Hội An. Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam là vùng kinh tế chủ đạo của khu vực Trung bộ, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước tập trung nhiều nguồn nhân lực đầu tư quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế- xã hội. Các khu công nghiệp Liên Chiểu - Hòa Khánh, Điện Ngọc - Điện Nam đang trên đà phát triển, điểm đến hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, có tác động tích cực trong việc tạo cơ hội phát triển kinh tế nội vùng.
Về địa hình, trong lưu vực sông Vu Gia- Thu Bồn có sự phân chia khá rõ ràng. Địa hình trong lưu vực nghiêng dần từ Tây sang Đông và chia thành 4 loại như núi, đồi, đồng bằng và đất cát duyên hải.
Hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn bắt nguồn từ vùng núi cao phía đông dãy Trường Sơn. Những dòng sông trong khu vực này thường có dòng chảy ngắn và dốc. Những đoạn sông chảy trong vùng địa hình đồi núi có dòng chảy nhỏ hẹp, bờ sông dốc đứng, nhiều thác nước, hình thái dòng sông ngoằn nghèo, uốn khúc. Từ đoạn giữa về xuôi, dòng sông rộng ra nhưng có hiện tượng ngày càng cạn dòng do phải chia nước cho hệ thống hồ thủy điện vùng thượng nguồn và một vài hệ thống kênh mương thủy lợi nội vùng. Càng về xuôi, bờ sông có nhiều thay đổi, nhất là đoạn sông chảy qua những cánh đồng và làng mạc. Nạn khai thác cát trên dòng sông đang là nỗi lo tiềm ẩn về tình trạng sạt lở bờ sông, đẩy nhiều làng mạc và diện tích đất nông nghiệp trôi theo dòng chảy, nhất là vào mùa lũ.
Trong lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn, nhiệt độ trung bình hàng năm tại vùng địa hình miền núi đạt từ 24-25,5 0C, vùng đồng bằng duyên hải từ 25,5-26 0C. Tốc độ gió trung bình hàng năm tại vùng núi từ 0,7-1,3m/s và 1,3-1,6m/s ở vùng đồng bằng ven biển. Tốc độ gió lớn nhất đạt tới 34m/s vào mùa khô và 25m/s vào mùa mưa đo được tại trạm quan trắc Trà My.
Những cơn bão xuất hiện trong lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn thường được hình thành từ biển Đông, di chuyển vào khu vực này chậm và tốc độ gió thấp do bị những ngọn núi cao của dãy Trường Sơn chặn lại. Gió to, bão lớn tập trung vào những vùng địa hình thấp và đó cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ngập lụt tại những vùng hạ lưu. Tại khu vực thượng nguồn, lũ lụt xuất hiện và rút rất nhanh, vào mùa mưa thường xuất hiện lũ quét.
Tại thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam, mùa mưa thường diễn ra vào cuối tháng 9 đến tháng 12, mùa khô từ tháng Giêng đến tháng 8 hàng năm. Đặc biệt, có 2 tháng trong mùa khô thường xuất hiện những trận mưa lớn, đó là tháng 5 và tháng 6 hàng năm. Mưa những tháng này có khi gây ra lụt lội tại vùng phía tây lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn, thường chỉ xuất hiện trên sông Bung vào tháng 5 và tháng 6.
Vào mùa mưa, lượng mưa trong lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn trung bình hàng năm chiếm tới 65-85% tổng lượng mưa cả năm trong khi mùa khô lượng mưa chỉ đạt từ 20-35%. Mùa mưa chính tập trung chủ yếu vào 2 tháng 10 và 11 hàng năm. Trong 2 tháng này lượng mưa đạt tới 40-50% tổng lượng mưa cả năm trong lưu vực, cho nên lũ lụt cũng thường xảy ra trong thời gian này. Mùa khô hạn hán nặng nhất tập trung vào cuối tháng hai đến tháng tư hàng năm. Lượng mưa thời gian này chỉ đạt từ 3-5% tổng lượng mưa hàng năm.
Trong khu vực nghiên cứu, lượng mưa trung bình hàng năm đo được từ 2000-4000mm, phân bố như sau: Tại vùng núi cao như Trà My, Tiên Phước lượng mưa hàng năm đạt từ 3000-4000mm; vùng có độ cao trung bình như Khâm Đức, Nông Sơn, Quế Sơn lượng mưa phổ biến hàng năm từ 2500-3000mm; vùng đồi núi thấp và đồng bằng duyên hải lượng mưa trung bình đạt từ 2000-2500mm.
Trong lực vực sông Vu Gia - Thu Bồn, vì có lượng mưa trung bình hàng năm cao nên lưu tốc dòng chảy các dòng sông khá lớn. toàn bộ dòng chảy trên hệ thống sông Thu Bồn hàng năm đạt tới 24km 3tương đương 24 tỷm 3, tương ứng với lưu lượng hàng năm Q o= 760 m 3/s và M 0= 73,4 lít/s.km 2. Đặc biệt, trong mùa mưa lũ từ tháng 10 đến tháng 12, lưu tốc dòng chảy đạt 64,8% lưu tốc dòng chảy hàng năm. Lưu tốc dòng chảy tháng lớn nhất (tháng 11) chiếm tới 27,3% lưu tốc dòng chảy hàng năm. Đặc biệt, trong thời kỳ đỉnh lũ, trên hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn, lưu tốc dòng chảy đạt trị số cực đại M maxlà 3.300 - 3.800 l/s.km 2; ở các sông nhánh số liệu đo được nhỏ hơn, khoảng 500-1000l/s.km 2.
Theo số liệu quan trắc lựa chọn tại trạm Nông sơn và Thạnh Mỹ, hiện tại sự biến đổi dòng chảy hàng năm trên dòng chính hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn giao động từ 0,31-0,37.
Tại tỉnh Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng và những vùng lân cận, mùa lũ thường xảy ra vào tháng 10 đến tháng 12 hàng năm. Lũ xuất hiện vào tháng 9 đến giữa đầu tháng 10 được gọi là lũ sớm, lũ xuất hiện từ tháng 12 đến tháng giêng năm sau được gọi là lũ muộn. Lũ lớn nhất thường xuất hiện trong khoảng thời gian từ nửa cuối tháng 10 đến tháng 11 hàng năm. Kết quả đo đạc trong 20 năm (1976-2007) tại Trạm quan trắc thủy văn Vu Gia - Thu Bồn về tình hình lũ lụt trên lưu vực sông cho thấy:
Tại điểm Thạnh Mỹ, vào ngày 20/11/1998, Q max(m 3/s) đạt tới 7.000 đơn vị; tại điểm Nông Sơn ngày 12/10/2007, Q max(m 3/s) đo được là 10.815 đơn vị. Lũ lụt trên sông vu Gia - Thu Bồn hàng năm xảy ra khi lũ đơn nhưng cũng có lúc xảy ra lũ kép.
Sông | Điểm khảo sát | Khu vực ngập nước (km 2) | X 0(mm) | Y 0(mm) | Q 0(m 3/s) | M 0(l/s.km 2) | W 0(10 9m 3) |
Vu Gia | Thanh Mỹ Ái Nghĩa | 1.850 5.150 | 2.770 2.420 | 1.943 1.650 | 114 271 | 61,6 52,3 | 3,60 8,55 |
Thu Bồn | Nông Sơn Giao Thủy | 3.159 3.825 | 3.300 3.300 | 2.393 2.390 | 254 308 | 75,9 75,8 | 7,54 9,15 |
Vu Gia Thu Bồn | Cửa Sông | 10.350 | 2.000 | 1.224 | 1,65 | ||
Ly Ly | Vu Gia | 275 | 2.200 | 1.390 | 12,3 | 44,7 | 0,39 |
Túy Loan | Thu Bồn | 309 | 2.000 | 1.224 | 12,0 | 38,8 | 0,38 |
Cu Đê | NamYên | 272 | 2.200 | 12,0 | 44,1 | 0,37 |
Trong lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn, mùa khô xuất hiện từ tháng giêng đến tháng 8 hàng năm, lượng mưa đạt được từ 20-25% tổng lượng mưa hàng năm. Đặc biệt vào mùa này, trên khu vực thượng nguồn dòng sông, lượng mưa chỉ đạt từ 25-30 l/s/km 2, tháng thấp nhất chỉ đạt từ 10-15 l/s/km 2.
Tại các khu vực duyên hải tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng xuất hiện chế độ thủy triều. Tại vùng cửa sông, chế độ thủy triều là bán nhật triều chiếm ưu thế và xảy ra trong tất cả các ngày của tháng.
Biên độ thủy triều trong khu vực nghiên cứu thực tế không lớn lăm. Số liệu tại trạm quan trắc thủy văn cho thẫy tại khu vực cửa sông, biên độ thủy triều trung bình đạt từ 0,8-1,2m, biên độ cực đại cũng chỉ trên 1,5m. Những tháng thủy triều xuất hiện với biên độ cao đã kéo theo tình trạng xâm nhập mặn qua các cửa sông. Khi triều xuống, nước mặn từ trong sông theo thủy triều đã kịp bị nhiễm mặn, ảnh hưởng đến khả năng canh tác. Kết quả điều tra sau đây cho thấy độ nhiễm mặn hàng ngày do chế độ thủy triều gây ra trong lưu vực sông Vu Gia- Thu Bồn:
Tài nguyên đất trong lưu vực sông Vu Gia -Thu Bồn gồm có đất nông nghiệp 87.660 ha, trong đó 42.083 ha đất trồng lúa và 26.000 ha đất trồng màu. Đất rừng có 568.693 ha, bao gồm 115.699 ha rừng đặc dụng, 253.052 ha rừng phòng hộ và 199.942 ha rừng trồng. Diện tích đất nuôi trồng thủy sản có 962 ha.
Vùng hạ lưu sông Vu Gia là khu vực có tốc độ phát triển kinh tế tới 10%/năm, cơ cấu kinh tế đang dần đổi thay theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn là nơi cung cấp nguồn lợi thủy năng lớn cho cả vùng, đó cũng trở thành lý do tạo nên sự xung đột trong việc khai thác nguồn nước phát triển thủy điện, công nghiệp và nguồn nước tưới tiêu cho nông nghiệp. Bộ Công nghiệp và Thương mại cũng như Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Nam đã và đang có kế hoạch phát triển 62 dự án thủy điện với tổng công suất 1.639 MW, trong đó:
- 10 dự án thủy điện trên sông Vu Gia- Thu Bồn với tổng công suất 1.094 MW (9 dự án trên sông Vu Gia và 1 dự án trên sông Thu Bồn).
- Những dự án thủy điện nhỏ và vừa còn lại có tổng công suất dự kiến 505 MW.
Sông | Khoảng cách vị trí đo tính từ biển (km) | S max(‰) | S min(‰) |
Hà | Cầu Nguyễn Văn Trỗi (4,5km) | 25-30 | 14-16 |
Thu Bồn | Duy Vinh (2,7km) | 18-22 | 10-18 |
Chợ Ba (6,8km) | 18-21 | 10-18 | |
Duy Thanh (10km) | 0.5-6 | 0.2-0.6 | |
Cầm Nam (8km) | 22-25 | 8-13 | |
Cẩm Hà (10,5km) | 14-20 | 4-9 |
Tuy nhiên, hầu hết các dự án mới được phê chuẩn trong thời gian ngắn gần đây và hầu như chỉ tập trung vào lĩnh vực thủy điện. Trong khi đó, phát triển thủy điện có thể là một trong những nguyên nhân chính gây nên tình trạng ngập lụt, nguy hại đến khu vực hạ nguồn các dòng sông. Việc khai thác nguồn tài nguyên nước các dòng sông phải được thực hiện theo cách đảm bảo tính cân bằng giữa các lĩnh vực kinh tế, các địa phương nằm trong lưu vực và nhất là mối liên quan về sự ổn định, phát triển bền vững giữa khu vực thượng nguồn và hạ nguồn các dòng sông.
Điều kiện tự nhiên của hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn gây ra nhiều khó khăn cho việc phát triển kinh tế - xã hội khu vực Miền Trung. Đặc điểm địa hình với nhiều núi cao, có sự phân chia lớn tạo nên sự bất lợi trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng giao thông vận tải và thủy lợi. Điều kiện khí hậu ở khu vực này cũng vô cùng khắc nghiệt. Độ che phủ của rừng ngày càng giảm sút, thảm họa thiên nhiên như lụt, bão cường độ ngày một mạnh lên. Mưa lớn làm xói mòn đất đai và là nguyên nhân của tình trạng trượt đất, những dòng sông mùa lũ cắt chia làng mạc, xóm thôn, nhấn chìm bao nhiêu công trình dân sinh, phá hủy hàng loạt công trình cơ sở hạ tầng trong khu vực. Việc xả lũ trên hệ thống hồ chứa của các công trình thủy điện vào mùa mưa cũng tiếp tay với thiên nhiên phá hoại mùa màng, đẩy cuộc sống của người dân vào tình trạng khốn đốn. Ngược lại, mùa khô hạn hán đang trở thành mối đe dọa đối với cuộc sống con người và động thực vật nơi đây, nguồn nước trên hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn giảm sút, các công trình thủy lợi tưới tiêu hầu như không hoạt động được. Nước sông giảm sút đã làm cho diện tích đất canh tác bị nhiễm mặn ngày một gia tăng, năng suất và chất lượng cây trồng ngày càng giảm.
Việc sử dụng nguồn nước trên hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn hiện nay chủ yếu tập trung vào khai thác thủy điện đang làm xuất hiện sự xung đột giữa lĩnh vực này với phát triển các ngành công nghiệp, giao thông vận tải, thủy lợi tưới tiêu, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản.Những dự án khai thác nguồn lợi hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn đã được phê chuẩn gần đây hầu như chỉ tập trung vào thủy điện. Khả năng ngập lụt ở vùng hạ du khi các nhà máy thủy điện xả lũ đã trở thành sự thật, thiệt hại hàng năm lên đến hàng trăm tỷ đồng.
Để xây dựng tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trở thành khu kinh tế công nghiệp hiện đại và nông nghiệp phát triển trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI, một trong những điểm mấu chốt là đảm bảo nguồn nước cung cấp cho hoạt động kinh tế,xã hội và đời sống cư dân trong khu vực. Ngoài ra, chính quyền 2 địa phương này cần có những hành động thiết thực để ngăn chặn thảm họa do việc khai thác thiếu quy hoạch nguồn tài nguyên nước trên hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn ở hiện tại và cả tương lai.