Hậu quả tác động của chất độc hóa học trong và sau chiến tranh đối với con người và môi trường sinh thái Việt Nam
Chiến tranh đã đi qua 50 năm, nhưng nỗi đau do chiến tranh vẫn còn in hằn trong trái tim của cả dân tộc Việt Nam. Theo số liệu thống kê cuộc chiến tranh hóa học của Mỹ ở Việt Nam từ năm 1961 – 1971 đã gây hậu quả nghiêm trọng đến sức khỏe con người Việt Nam. Làm hơn 4,8 triệu người bị phơi nhiễm, trong đó có 3 triệu người là nạn nhân chất độc da cam/dioxin. Nhiều nạn nhân là trẻ em (kể cả thế hệ con cháu). Hàng vạn người đã chết, hàng triệu người mắc bệnh ung thư và các bệnh nan y khác. Hàng trăm ngàn con cháu của họ đang bị dị dạng, dị tật, đang sống trong đau thương, nghèo khó do di chứng tàn khốc của chất độc da cam/dioxin.
Nạn nhân của chất độc da cam là những cán bộ, bộ đội, thanh niên xung phong, dân quân tự vệ, du kích, dân công hỏa tuyến đã từng trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu ở những vùng bị quân Mỹ rải chất độc hóa học trên chiến trường miền Nam; người dân ở những vùng giải phóng và cả những người trước đây từng phục vụ cho chế độ Mỹ, ngụy cũng mắc bệnh do tiếp xúc với chất độc hóa học. Dù lai lịch khác nhau nhưng họ đều là nạn nhân bị nhiễm chất độc hóa học do quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam.
Các bệnh nhân này đã mang trong mình những căn bệnh quái ác, di truyền đến đời con, cháu. Họ đã và đang chết dần, chết mòn, đau đớn về cả thể xác lẫn tinh thần. Trong số họ, có rất nhiều cảnh ngộ đau thương, bi đát, tuyệt vọng vì bệnh tật, nghèo khó, cô đơn, không nơi nương tựa. Nhất là những gia đình có nhiều nạn nhân sống trong hoàn cảnh hết sức khó khăn và kiệt quệ.
Theo điều tra thống kê mới đây: 70% số nạn nhân chất độc hóa học thuộc diện hộ đói nghèo, trong đó 40% là hộ đói; 22% hộ gia đình có từ 3 nạn nhân trở lên; 30% nạn nhân sức khỏe yếu hơn trước; 90% nạn nhân không có nghề nghiệp.
Đồng Nai là một tỉnh nằm trong vùng III chiến thuật của Mỹ ngụy bị rải nặng nhất gần 10 triệu lít diệt cỏ, trong đó có hơn 4.904.000 lít chất độc màu da cam. Nếu bình quân toàn miền Nam 4 lít/người, thì ở Đồng Nai bình quân 7,7 lít/người. Tính đến nay, Đồng Nai có trên 13.140 người bị phơi nhiễm chất dioxin, trong đó có 62% là dân thường; 20% là trẻ em dưới 18 tuổi bị dị dạng, dị tật; nhiều gia đình có từ 2 – 4 nạn nhân, cá biệt gia đình có đến 8 nạn nhân.
Riêng ở Khánh Hòa, theo điều tra năm 2002, toàn tỉnh có 9.151 người bị phơi nhiễm dioxin, 3.085 trẻ em sinh ra trong và sau chiến tranh mắc các bệnh bại não, thần kinh, dị tật bẩm sinh… đã có hàng trăm người chết do bệnh tật hiểm nghèo, hàng chục gia đình có từ 2 – 4 người là nạn nhân của chất độc màu da cam, trong đó khoảng 70% là gia đình nghèo khó, tinh thần bị tổn thương.
Quân đội Mỹ sử dụng chất 2,4,5- T như một loại vũ khí trong chiến tranh Việt Nam những năm 1961 – 1971 để phá hủy rừng nơi mà quân đội Mỹ cho là căn cứ của bộ đội ta (khoảng 85% khối lượng chất độc hóa học) và để phá hủy ruộng nương, hoa màu, nhằm trực tiếp tiêu hủy nguồn lương thực (khoảng 15% còn lại). Uớc tính quân đội Mỹ sử dụng chất độc hóa học rải xuống 24% diện tích miền Nam, hủy diệt khoảng 1,7 triệu ha rừng và toàn bộ diện tích thảm thực vật. Xét về kinh tế đã gây thiệt hại hơn 100 triệu m 3gỗ, phá hoại 260.000 ha đất nông nghiệp làm thiệt hại trên 300.000 tấn lương thực và khoảng 30% trong 135.000 ha đất trồng cây cao su.
Theo một nghiên cứu của cố giáo sư Hoàng Đình Cầu vào năm 2000, diện tích bị phun rải chất độc hóa học ở nước ta vào khoảng 13,6 triệu ha, trong đó số diện tích bị phun rải một lần chiếm 66%, hai lần chiếm 22%, ba lần chiếm 8%, từ bốn lần trở lên chiếm 1%, với liều lượng chất độc hóa học gấp 28 – 30 lần thuốc trừ cỏ.
Đặc biệt, do việc sử dụng chất độc hóa học nằm trên đầu nguồn của nhiều con sông lớn như sông bến Hải, sông Hàn, sông Hương, sông Đồng Nai, sông Bé, sông Vàm Cỏ và sông Cửu Long cùng gió, bão lụt và nhiều yếu tố tự nhiên xã hội khác làm cho chất độc lan truyền và phát tán gần như toàn bộ diện tích đất đai miền Nam. Các tỉnh thuộc chiến khu C, Đ cụ thể là các tỉnh xung quanh thành phố Hồ Chí Minh như Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu là những nơi bị phun rải nhiều nhất chiếm trên 50% tổng khối lượng chất độc hóa học. Tiếp đến là các tỉnh Tây Nguyên và Nam Trung Bộ chiếm 20%, bao gồm: ĐăkLăk, Gia Lai, Kon Tum, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa; các tỉnh giáp vĩ tuyến 17 như Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam chiếm 16%, các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long chiếm 8%.
Trong chiến dịch Ranch-Hand, các phi vụ tập trung vào các khu rừng vùng núi cao tới ven biển, từ vùng ẩm ướt tới vùng khô cạn trải dài từ vĩ tuyến 17 đến Cà Mau. Đặc biệt, một số vùng như vườn quốc gia Bạch Mã, A Lưới (Thừa thiên Huế), chiến khu C, chiến khu Đ, rừng Bời Lời, khu sa thày (Kontum), rừng Củ Chi, khu Cần Giờ (TP.Hồ Chí Minh) khu Cần Thơ, và khu Cà Mau… đã bị rải hàng triệu lít chất độc hóa học, cùng với hàng triệu tấn bom đạn. Nhiều khu rừng đã bị triệt phá hoàn toàn, theo ước tính các vụ rải các chất hóa học đã làm tổn thất trên 100 triệu m 3gỗ, cây rừng bị rụng lá và chết, nhiều tài nguyên như các cây lấy nhựa, tinh dầu, mây tre, cây thuốc và động vật rừng cũng bị hủy diệt. Đến nay, tại các khu rừng bị rải chất độc hóa học nhiều lần như A Lưới, Sa thày, Mã Đà… khu hệ thực vật và động vật giờ đang được phục hồi, nhưng hết sức chậm chạp, các hệ sinh thái nghèo nàn. Các hệ sinh thái rừng ẩm nhiệt đới trước kia rất khó có điều kiện phục hồi tự nhiên.
Chất độc hóa học thông qua việc hủy diệt toàn bộ thảm thực vật đã làm cho chất lượng đất thay đổi nhanh chóng, bề mặt đất bị xói mòn, rửa trôi, phơi nắng mưa, cấu trúc thổ nhưỡng bị thay đổi ngày càng nghèo kiệt. Việc mất rừng ngập mặn gây nên nhiều biến động lớn ở biển Đông, bồi đắp ở bờ biển phía Tây đồng bằng sông Cửu Long.
Nguồn lợi các loài động vật ở nước như: cá, tôm tại các nơi bị rải chất độc đã bị thiệt hại nặng nề. Những loài động vật lớn như: Hổ, nai, voi, lợn rừng, khỉ, kỳ đà và nhiều loại chim bị chết do mất rừng hay bị nhiễm độc trực tiếp, gián tiếp qua thức ăn, số còn sống không còn nơi cư trú, kiếm ăn và sinh sản nên bỏ đi nơi khác.
Đã 40 năm trôi qua, các điều kiện khí hậu của vùng nhiệt đới đã có nhiều tác dụng phân hủy các chất hóa học trong chiến tranh, trong đó có dioxin, nhưng môi trường của Việt Nam vẫn bị ô nhiễm do dioxin. Tỷ lệ dioxin trong đất được tìm thấy tại một số “điểm nóng” như sân bay và vành đai Đà Nẵng, Phù Cát và Biên Hòa và các khu vực kho thuộc các căn cứ quân sự của Mỹ có chứa các thùng đựng hóa chất cao hơn hàng nghìn lần tỷ lệ nhiễm dioxin tối đa cho phép. Ngoài ra, tỷ lệ dioxin được tìm thấy trong các mẫu máu tại đây cũng cao hơn tỷ lệ trung bình từ 30 đến 40 lần, có nơi lên đến 100 lần. Sự ô nhiễm này vẫn tiếp tục xâm nhập vào cơ thể của người dân trong vùng, là một trong nhiều nguyên nhân gây bệnh tật và các tai biến sinh sản cho một bộ phận nhân dân bị phơi nhiễm và con cháu của họ. Có lẽ những tác động đáng buồn này sẽ còn diễn ra trong vài thập kỷ của thế kỷ XXI./.








