Hàng rào kỹ thuật trong thương mại đối với sản phẩm chè xuất khẩu của Lâm Đồng
Lâm Đồng là tỉnh có diện tích trồng chè đứng thứ 2 trong cả nước, khoảng 24.215 ha. Tuy nhiên, hầu hết chè của Lâm Đồng được trồng từ những năm 20 của thế kỷ trước, nên hiện nhiều diện tích nơi đây đã già cỗi và cho năng suất thấp
Toàn tỉnh hiện có 51 doanh nghiệp và 150 cơ sở chế biến chè. Sản phẩm chè của Lâm Đồng được xuất khẩu qua nhiều nước, chủ yếu là Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga, Mỹ, các nước Trung Đông và châu Âu.
Tuy nhiên, sản phẩm chè xuất khẩu hiện nay của tỉnh đang còn ở mức khiêm tốn, phân tích tình hình cho thấy do một số nguyên nhân chủ yếu là:
- Một trong những tồn tại lớn nhất của doanh nghiệp xuất khẩu là chất lượng sản phẩm thường không ổn định, chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà nhập khẩu do doanh nghiệp không kiểm soát được chất lượng nguyên liệu đầu vào, trong khi yêu cầu về chất lượng và chỉ tiêu an toàn của các nước nhập khẩu ngày càng chặt chẽ. Hiện có khoảng 80% nguyên liệu chè được mua trôi nổi trên thị trường, còn lại chỉ có khoảng 20% nguyên liệu chè tự trồng. Một số doanh nghiệp cũng đã sản xuất theo tiêu chuẩn của nước nhập khẩu như Đài Loan, Nhật Bản, song chưa đáp ứng được đầy đủ các tiêu chuẩn đó mà nguyên nhân chủ yếu là do dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong chè thường vượt quá giới hạn cho phép.
- Nhà xưởng, thiết bị và công nghệ chế biến chè lạc hậu, không đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất; chỉ một số doanh nghiệp lớn và có sản phẩm chè xuất khẩu mới quan tâm đầu tư công nghệ mới và đồng bộ.
- Hầu hết các doanh nghiệp không có phòng thử nghiệm, kiểm nghiệm về chất lượng sản phẩm; chưa có chiến lược đầu tư xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm.
Hàng rào kỹ thuật đối với sản phẩm chè xuất khẩu
Hiện nay, nhu cầu chất lượng hàng hóa nông sản nói chung được nâng cao, đa dạng, các yếu tố an toàn vệ sinh thực phẩm luôn được đặt lên hàng đầu. Nếu sản phẩm chè của chúng ta không đáp ứng được yêu cầu của các thị trường xuất khẩu thì đó sẽ là rào cản lớn đối với hoạt động xuất khẩu mặt hàng chè của tỉnh.
Trong khi đó, các tiêu chuẩn kỹ thuật, quy chuẩn kỹ thuật của một số nước cũng đã có nhiều thay đổi theo hướng chặt chẽ hơn khi nhập khẩu mặt hàng chè. Đơn cử như Nhật Bản, họ có những yêu cầu rất gay gắt đối với dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong chè (yêu cầu kiểm soát trên 140 loại khác nhau); hoặc đối với châu Âu, đặc biệt là Ý và Đức, họ lại quan tâm nhiều đến vấn đề độc tố Ochratoxin A; còn tại thị trường Úc và Bắc Mỹ thì quan tâm đến sâu mọt,… Nếu tại những thị trường này họ đưa các quy chuẩn kỹ thuật trên như là những rào cản kỹ thuật thì các doanh nghiệp sản xuất chè của Lâm Đồng sẽ phải chi phí nhiều hơn để nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu của mình.
Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp cũng gặp phải trở ngại đốivới sản phẩm xuất khẩu của mình do thiếu các giấy chứng nhận về hệ thống quản lý chất lượng (ISO 9001), hệ thống quản lý môi trường (ISO 14000) an sinh xã hội (SA 8000), thực hành sản xuất nông nghiệp tốt GAP ( Global Agricultural Practices), an toàn vệ sinh thực phẩm theo HACCP ( Hazard Analysis and Critical Control Points), ISO 22000,… Vấn đề này cũng là những khó khăn mà các doanh nghiệp cần tháo gỡ để dần nâng cao trình độ sản xuất và năng lực quản lý, tạo ra được những sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường, nâng cao tính cạnh tranh với các nước trong và ngoài nước, đồng thời vượt qua rào cản kỹ thuật trong thương mại mà các nước nhập khẩu đặt ra.
Giải pháp giúp doanh nghiệp vượt qua rào cản
Nâng cao chất lượng chè xuất khẩu
- Xây dựng cơ chế chính sách, phát triển một cách phù hợp và mang tính đột phá từ khâu quản lý giống đến kỹ thuật canh tác. Tổ chức sản xuất vùng chè theo quy hoạch, khuyến cáo cải tạo vườn chè bằng cách thay thế khoảng 55% tổng diện tích chè toàn tỉnh đã già cỗi, năng suất thấp bằng các giống chè có năng suất, chất lượng cao. Thông qua việc ký kết hợp đồng với người nông dân, đưa công nghệ sản xuất chè an toàn theo hướng GAP vào từng nông hộ và từng doanh nghiệp để kiểm soát chặt chẽ nguồn và từng doanh nghiệp để kiểm soát chặt chẽ nguồn nguyên liệu phục vụ cho chế biến xuất khẩu.
- Xây dựng mối liên kết giữa doanh nghiệp và người nông dân, giúp nông dân hiểu rõ những việc cần làm; chủ động lấy mẫu phân tích sản phẩm tại các nông hộ được liên kết sản xuất đề từ đó có nguồn hàng tốt phục vụ tiêu thụ nội địa cũng như xuất khẩu. Đây chính là biện pháp tốt nhất để nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm đầu ra ổn định, tăng hiệu quả sản xuất đối với cây chè.
- Đầu tư đổi mới công nghệ cho một số nhà máy chế biến có công suất tương xứng với quy mô của vùng nguyên liệu; gắn kết giữa nhà máy chế biến và vùng nguyên liệu; chú trọng công tác an toàn vệ sinh thực phẩm, vệ sinh môi trường.
- Nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, xây dựng các thương hiệu mạnh có uy tín trên thị trường xuất khẩu.
- Tăng cường công tác nghiên cứu, khảo nghiệm xác định các loại thuốc bảo vệ thực vật thế hệ mới, thuốc sinh học có khả năng phòng trừ hiệu quả các loại sâu bệnh hại chè. Xây dựng quy trình quản lý phòng trừ dịch hại tổng hợp, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật an toàn đối với quy trình trồng chè.
- Khuyến cáo kỹ thuật thu hái chè đúng phẩm cấp, đúng quy trình kỹ thuật theo từng giống, từng mùa vụ, thời kỳ sinh trưởng. Chú trọng khâu bảo quản và vận chuyển, nâng cao chất lượng sản phẩm…
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
- Nâng cao trình độ chuyên môn, quản lý của đội ngũ cán bộ, nhân viên trong doanh nghiệp. Cử cán bộ kinh doanh ra nước ngoài để vừa nắm bắt, nghiên cứu thị trường, vừa học hỏi kinh nghiệm, đồng thời tạo dựng mối quan hệ thương mại vững chắc.
- Mở các lớp tập huấn kỹ thuật cho người trồng chè, chế biến chè theo chương trình khuyến nông và khuyến công.
Huy động vốn đầu tư phát triển
- Tận dụng đất đai và các ưu thế của hệ sinh thái vùng đồi, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất và kinh doanh tại các doanh nghiệp.
- Có cơ chế mua bán với mức giá khuyến khích, mạnh dạn áp dụng cơ chế đầu tư qua giá hướng tới nông dân để họ yên tâm sản xuất và chủ động đầu tư trở lại cho cây chè. Việc giao đất cho người lao động là một hình thức huy động vốn trong dân một cách tự giác, có hiệu quả.
- Kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài, liên doanh - liên kết, thông qua đó, đưa giống mới, kỹ thuật mới, thiết bị công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến vào sản xuất và giải quyết một phần vấn đề tài chính.
- Có thể vay từ nguồn vốn nhà nước với lãi suất ưu đãi; huy động nguồn vốn nhà nước hỗ trợ nghiên cứu khoa học và công nghệ, khuyến khích và chuyển giao kỹ thuật mới về chè, chế tạo sản xuất công cụ, thiết bị phục vụ sản xuất chè,…
Các giải pháp khác
Các cơ quan quản lý cần có kế hoạch rà soát, đánh giá năng lực thiết bị, công nghệ và khả năng cung cấp nguyên liệu của các cơ sở chế biến chè trên địa bàn. Kiên quyết đình chỉ hoạt động hoặc thu hồi giấy đăng ký kinh doanh đối với các doanh nghiệp không đảm bảo các điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy định.
Bên cạnh đó, cũng cần đảm bảo điều tiết, phân vùng nguyên liệu cho các cơ sở chế biến để khắc phục hiện tượng tranh chấp trong thu mua hoặc ép cấp (phẩm cấp chè), ép giá đối với người sản xuất.








