Hàn Quốc khởi đầu phát triển KH&CN như thế nào? (Phần 2)
Nghiên cứu hay ứng dụng - Phải thực dụng thôi
Bữa tiệc không vui
Vào khoảng tháng tư năm 1964, Tổng thống Park mời Viện trưởng của các Viện quốc gia đến dự một bữa tiệc chiêu đãi.
Ts Cho Hoyung Sup nhớ lại: trong buổi tiệc đó Tổng thống vui mừng khoe với mọi người về kỷ lục xuất khẩu áo len đạt tới 20 triệu USD. Tôi trả lời : “Kỷ lục này thật đáng biểu dương. Nhưng chúng ta còn phải bám vào những mặt hàng như thế này bao lâu nữa ? Nhật Bản đã xuất khẩu đến 1 tỷ USD các sản phẩm điện tử. Sức mạnh này từ đâu ra ? Câu trả lời là phát triển công nghệ ! Chúng ta cũng phải phát triển công nghệ”. Đột nhiên, Tổng thống trở nên trầm tư, có vẻ như suy nghĩ về một điều gì đó, mặt ông cau lại.
Dứt khoát chọn phương hướng phát triển là ứng dụng
Cuộc viếng thăm nước Mỹ của Tổng thống Park vào tháng 6 năm 1964 là một cái mốc có tính chất quyết định đối với việc thành lập Viện Khoa học và Công nghệ Quốc gia Hàn quốc (KIST).
Mặc dù hai Tổng thống đã thỏa thuận về việc thành lập Viện KIST, song chưa bên nào soạn thảo được một kế hoạch thực hiện chi tiết nào. Do vậy, tiến sĩ Horning, cố vấn khoa học của TT Giôn - xơn đến thăm Hàn Quốc để nghiên cứu tính khả thi của việc thành lập Viện KIST. Cùng đi với ông có James B. First, Viện trưởng Viện Bell, Bertram D. Thomas, Viện trưởng Viện Bartell, tiến sĩ Albert H.Moserman, chuyên gia nông nghiệp của Quỹ Rockefellor và vợ của tiến sĩ Horning, là giáo sư ngành hóa của Trường Đại học Trinity.
Trước khi đoàn tới Hàn Quốc để soạn thảo kế hoạch tổng thể, TS.Horning hỏi tôi : “Tôi hy vọng rằng một trong các Viện của Mỹ sẽ xây dựng mối quan hệ kết nghĩa với Viện KIST sẽ được thành lập. Ông khuyên nên chọn Viện nào ?”. Theo TS.Horning, Chính phủ Mỹ có vẻ muốn gợi ý chúng tôi mô hình viện Bell là một viện loại hàng đầu thế giới. Nhưng tôi trả lời : “ Tình hình hiện tại của chúng tôi chưa cho phép chúng tôi thành lập một viện đắt giá với các nghiên cứu bao quát cả các khoa học cơ bản lẫn các khoa học ứng dụng. Thành lập một viện như vậy đòi hỏi những đầu tư tài chính rất lớn. Chúng tôi cần một viện có thể nghiên cứu những công nghệ mà các doanh nghiệp tư nhân đòi hỏi”. Chúng tôi yêu cầu gửi cho chúng tôi các nhà nghiên cứu của Viện Bartell là một viện có dạng doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các hợp đồng và có khả năng nghiên cứu các công nghệ để liên kết trực tiếp với các ngành sản xuất.TS.Horning hơi bất ngờ khi nghe thấy câu trả lời của tôi. Song, đó là kết luận cuối cùng của tôi : để tồn tại, không thể làm khác được.
Ở viện Bell mỗi dự án nghiên cứu được bắt đầu từ giai đoạn cơ bản với một lượng vốn đầu tư khổng lồ cho một triển vọng dài hạn. Nó đòi hỏi một thời kỳ thai nghén lâu dài trước khi các kết quả nghiên cứu được thương mại hóa. Còn viện nghiên cứu phỏng theo mô hình của Viện Bartell phù hợp hơn với hoàn cảnh Hàn Quốc vì các kết quả nghiên cứu của Viện Bartell, một viện nghiên cứu theo hợp đồng, có thể ngay lập tức ứng dụng vào khu vực kinh doanh.
Ts.Horning đã giúp đỡ chúng tôi hết lòng. Sau này, chúng tôi đã mời hai vợ chồng ông đến dự buổi lễ kỷ niệm 10 năm thành lập Viện KIST. Ông vui mừng đến nỗi rưng rưng nước mắt khi biết rằng Viện KIST đã hoạt động rất thành công.
Mục tiêu là khách hàng – Phương thức là hợp đồng
Tôi được bổ nhiệm làm Viện trưởng đầu tiên của Viện KIST vào ngày 3 tháng 2 năm 1966.
Ngay trong những ngày đầu sau khi thành lập Viện KIST, chúng tôi đã đứng trước yêu cầu bắt buộc là phải tìm ra những con đường kết nối các nhà nghiên cứu của Viện KIST với giới kinh doanh. Tôi đã hiểu rằng các viện nghiên cứu ở nhiều nước đang phát triển không đạt được những kết quả tốt vì, trưoc hết, người ta thành lập các viện, sau đó hình thành các dự án nghiên cứu, và tiếp đến mới đi tìm khách hàng để ứng dụng các kết quả nghiên cứu, nhưng không có ai tin tưởng vào các kết quả nghiên cứu đó.
Các nhà kinh doanh có suy nghĩ hoàn toàn tự nhiên rằng việc chấp nhận những công nghệ mới chưa được thử nghiệm bao giờ là quá mạo hiểm. Nhưng một công ty đã tài trợ cho dự án nghiên cứu thì bắt buộc phải ứng dụng công nghệ mới bất chấp rủi ro. Đó là lý do vì sao tôi quyết định đưa vào thực hiện hệ thống nghiên cứu dựa trên cơ sở hợp đồng.
Hệ thống thông thường là, trước hết, đạt cho được kết quả nghiên cứu, sau đó, tìm kiếm những khách hàng sẽ mua các kết quả nghiên cứu này. Còn hệ thống của chúng tôi là :
- Trước hết, cùng với khách hàng lựa chọn mặt hàng để nghiên cứu,.
- Sau đó, bắt tay vào cùng nghiên cứu với khách hàng khi đã nhận được tiền hợp đồng.
Nhà khoa học phải có thu nhập xứng đáng
Một nhiệm vụ quan trọng khác là phải học cách làm thế nào huy động được những nhà nghiên cứu có năng lực. Vấn đề là mời các nhà khoa học này về với điều kiện như thế nào ?.
Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, tôi đặt ra một số nguyên tắc để đảm bảo:
1.Quyền tự chủ trong nghiên cứu.
2. Điều kiện sống ổn định.
3. Môi trường nghiên cứu đầy đủ.
Không thể coi nhẹ các yếu tố tiền bạc, nhưng điều quan trọng hơn là phải nâng cao uy tín xã hội của các nhà khoa học để họ cảm thấy tự hào khi thực hiện sứ mệnh của họ là phải đảm bảo cho họ những điều kiện sống ổn định. Nhằm mục đích này, trước hết, chúng tôi cung cấp cho họ nhà ở và bảo hiểm y tế, loại hình bảo hiểm thời kỳ đó ở Hàn Quốc còn chưa có. và chúng tôi tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục con cái của họ. Rồi chúng tôi trả lương cho họ ở mức tương đương với lương của những người trung lưu. Tôi vẫn tin rằng lương cao quá sẽ làm các nhà nghiên cứu thờ ơ với việc nghiên cứu và học tập.
Dựa trên những đường hướng này, tôi đặt mức lương của các nhà nghiên cứu bằng ¼ mức lương họ có thể nhận được ở Mỹ, vì rằng hầu hết các nhà khoa học đều từ Mỹ về. Mức lương này cao gấp 3 lần những gì mà các giáo sư đại học trong nước nhận được.
Kiện lên tận Tổng thống
Hiển nhiên là các trường đại học không thể im lặng trước việc này. Tiến sĩ Lee Ryang, Hiệu trưởng Trường Đại học Kỹ thuật Công trình thuộc Đại học Tổng hợp Quốc gia Seoul là người đầu tiên đến gặp tôi. Ông phản đối gay gắt, cho rằng mức lương cho các nhà nghiên cứu của Viện KIST không hợp lý và việc này thậm chí có thể gây nên những vấn đề xã hội !.
Tôi có quan hệ rất thân tình với TS.Lee và ở vào vị trí có thể nói thẳng ý kiến của tôi với ông, nên tôi hỏi : “TS.Lee, theo anh liệu các nhà giáo sư đã nhận được mức lương tương xứng với danh hiệu của họ hay chưa?”. và tôi cũng hỏi : “Mức lương dành cho các nhà người của Viện KIST là mức tối thiểu cần thiết để đảm bảo sao cho họ có thể chỉ chú tâm vào học tập và nghiên cứu mà không bị xao nhãng vào những vấn đề khác. Đây không phải số tiền đủ để dẫn họ đi vào cuộc sống xa hoa. Anh nghĩ thế nào về chuyện này?”. Ông ta im lặng không trả lời các câu hỏi của tôi. Tôi nói thêm : “Có phải sẽ là hợp lý hơn không, nếu như cố gắng tăng mức lương của các anh lên thay vì kéo mức lương của người khác xuống ?. TS.Lee đồng ý với giải thích của tôi và không bao giờ đưa vấn đề này ra nữa.
Tuy nhiên, vấn đề không kết thúc ở đó. Có rất nhiều kiến nghị trực tiếp được gửi tới Văn phòng Tổng thống phản đối mức lương của Viện KIST. Được biết Bộ Khoa học và Công nghệ cũng làm một báo cáo gửi lên Tổng thống Park phản đối mức lương của Viện KIST. Một hôm, tôi được triệu tập lên Văn phòng Tổng thống cùng với bản lương của các nhà nghiên cứu Viện KIST. Xem xong bảng lương, tổng thống Park mỉm cười và nói : “Tôi được báo cáo rằng lương của hầu hết các nghiên cứu viên ở Viện KIST còn cao hơn cả lương tôi !”. Tôi nói với ông : “Nếu ngài cho rằng mức lương này bất hợp lý thì ngài có thể giảm lương của tôi, nhưng không thể làm thế với những người khác được”. Sau một thoáng, ông ta nói : “ Cứ giữ nguyên thế”, và đứng dậy đi ra.
Nguồn: khoahocphattrien.com.vn 16/6/2006








