Hai nhăm năm ấy biết bao nghĩa tình
P.V:Thưa Giáo sư - Viện sỹ Vũ Tuyên Hoàng, 25 năm - một phần tư thế kỷ vừa qua, đất nước ta tiến vào thời kỳ đổi mới và hội nhập, Liên hiệp hội Việt Nam đã có những đóng góp nổi bật như thế nào cho sự nghiệp lớn lao và đầy thử thách của dân tộc?
Giáo sư - Viện sỹ Vũ Tuyên Hoàng:Trước khi nói về những thành tựu nổi bật của Liên hiệp hội Việt Nam 25 năm qua, tôi muốn nhắc lại truyền thống đáng tự hào của giới trí thức yêu nước, trong đó có những nhà khoa học và công nghệ - họ luôn sống mãi trong trái tim của mỗi chúng ta. Đó là những nhà trí thức đầy tâm huyết trong sự nghiệp canh tân, nâng cao dân trí, dân khí, dân sinh - những sỹ phu ái quốc Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Lương Văn Can…, những nhà văn hoá và học giả làm giàu văn hoá Việt Nam, những nhà khoa học và công nghệ suốt đời sáng tạo phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tôi nhớ tới câu thơ của GS. TSKH Phan Đình Diệu kính tặng GS. Viện sỹ Trần Đại Nghĩa - vị Chủ tịch đầu tiên của Liên hiệp hội Việt Nam , một tấm gương sáng của trí thức khoa học – công nghệ:
“Nghĩa lớn tìm về với nước non
Buồn vui đã trải cuộc vuông tròn
Rèn tài văn võ thời phiêu bạt
Gánh việc giang sơn thuở mất còn…”
Cũng cần ghi nhận những đóng góp to lớn của Hội Phổ biến Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam vào thập niên 60 của thế kỷ XX trong sự nghiệp nâng cao dân trí và đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào phục vụ sản xuất, đời sống.
Tôi luôn tâm niệm, Liên hiệp hội Việt Nam cần phải kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước, thông minh, thao lược đó của trí thức nước nhà.
Khi mới thành lập, Liên hiệp hội Việt Nam chỉ tập hợp vỏn vẹn một số hội chuyên ngành như: Hội Luật gia, Hội Y - Dược, Hội Đông y, Hội Khoa học Kinh tế, Hội Vật lý, Hội Toán học Việt Nam... và Liên hiệp hội Hà Nội. Vào thời chiến tranh, phần lớn các hội này có chức năng hội nghề nghiệp, đoàn kết trí thức trong Mặt trận Tổ quốc và một phần để làm tổ chức đại diện trong quan hệ hợp tác quốc tế, chủ yếu đối với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Từ một số hội thành viên “đếm trên đầu ngón tay” đó, tới nay Liên hiệp hội Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước công nhận bằng các văn bản pháp quy là một tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn tập hợp các liên hiệp hội địa phương, các hội chuyên ngành, các đơn vị khoa học và công nghệ trực thuộc. Hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam hoạt động trong hầu khắp các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ, khoa học xã hội – nhân văn trên mọi miền đất nước, phát triển từ quy mô nhỏ đến lớn, từ bề rộng đến chiều sâu.
Các hoạt động phong phú, đa dạng, đầy tâm huyết và sáng tạo của Liên hiệp hội Việt Nam cùng các thành viên nhằm vào tiêu chí tập hợp, đoàn kết, phát huy năng lực của trí thức khoa học – công nghệ trong khối liên minh công – nông – trí thức, hoạt động phổ biến kiến thức, nâng cao dân trí, đưa tiến bộ khoa học – công nghệ vào sản xuất và đời sống nhằm góp phần phát triển bền vững trong hội nhập, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó cũng là thực hiện công tác vận động trí thức của Đảng, nhưng khác với thời chiến, nền kinh tế chỉ huy tập trung bao cấp, Liên hiệp hội Việt Nam ngày nay hoạt động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự ngày càng phát triển. Tôi không có ý định nêu lên những việc làm và con số cụ thể, vì đã được tổng hợp trong các tập kỷ yếu và đã đăng tải trên báo chí, trên mạng, ở đây chỉ muốn nhấn mạnh rằng, điều đó không còn chỉ là lý thuyết mà đã trở thành thực tiễn hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam và các tổ chức thành viên. Xin đơn cử một vài dẫn chứng. Như quá trình xây dựng các làng sinh thái của Viện Kinh tế - Sinh thái, một viện dân lập trực thuộc Liên hiệp hội Việt Nam trong những năm qua đã thu được những thành tựu đầy ấn tượng. Dưới sự lãnh đạo của cố GS.TSKH Nguyễn Văn Trương – Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới, mặc dù ban đầu không có kinh phí, Viện đã tập hợp được trí tuệ của các nhà khoa học đầu ngành (về sinh thái học, nông hoá, thổ nhưỡng, nông học, lâm nghiệp, chọn tạo giống cây trồng vật nuôi, v.v.) xây dựng dự án, từ đó kêu gọi tài trợ của các tổ chức NGOs nước ngoài và một phần kinh phí của Nhà nước, tạo lập được hàng chục làng sinh thái ở các vùng sinh thái kém bền vững (như vùng cồn cát ven biển, vùng đồi trọc…) tạo nên môi trường xanh, tạo ngành nghề mới và từ đó cải thiện đời sống cho bà con nông dân. Đề Tài Xây dựng mô hình phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH, HĐH được triển khai khá rộng, góp phần đưa nhanh các tiến bộ kỹ thuật, các giống cây trồng, vật nuôi tốt vào chăn nuôi, trồng trọt, gắn kết “ba nhà” nhằm giúp nông dân vừa sản xuất giỏi vừa tiếp cận với thị trường. Cần khẳng định rằng việc thực hiện cuộc cách mạng về giống cây trồng, vật nuôi là yếu tố quan trọng giúp Việt Nam vươn lên từ chỗ thiếu lương thực trở thành quốc gia xuất khẩu lúa gạo hàng đầu.
Tôi muốn nêu một số kết quả hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội để làm rõ vai trò chính trị - xã hội của Liên hiệp hội Việt Nam đã được Chỉ thị 45-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) và Chỉ thị 14/TTg, Quyết định số 22/2002/QĐ-TTg của Chính phủ khẳng định. Ý nghĩa của chức năng nhiệm vụ này thực sự mới mẻ so với thời kỳ chỉ huy tập trung, bao cấp, nó thể hiện quyết tâm đổi mới tư duy lãnh đạo của Đảng: tin tưởng, tạo điều kiện, môi trường cởi mở hơn cho trí thức phát huy sáng tạo, nâng cao tính độc lập trong tư vấn, phản biện, giám định xã hội. Đó là một giải pháp quan trọng ngăn chặn tham ô, lãng phí, thất thoát do tầm nhìn và hiểu biết hạn hẹp cùng những tiêu cực xã hội gây nên. Những năm qua, Liên hiệp hội Việt Nam đã tổ chức tư vấn, phản biện và thẩm định hồ sơ của nhiều dự án đầu tư quan trọng, trong đó lớn nhất là Dự án khả thi xây dựng thuỷ điện Sơn La, Dự án xây dựng đường Hồ Chí Minh đoạn qua Vườn quốc gia Cúc Phương, Dự án thay nước Hồ Tây, các dự án Bảo tồn di tích Hoàng Thành Thăng Long, các dự án Chấn hưng nền giáo dục – đào tạo nước nhà…
Những năm qua, hoạt động hợp tác quốc tế của Liên hiệp hội Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu và ngày càng khởi sắc trong quá trình nước ta hội nhập với khu vực và các nước trên thế giới. Liên hiệp hội là thành viên chính thức của Liên đoàn các tổ chức công nghệ ASEAN (AFEO), có những hoạt động thiết thực, hiệu quả, như tổ chức thành công Hội nghị Khoa học thường niên CAFEO lần thứ 18 tại Hà Nội vào cuối năm 2000; Tiến hành dự án đăng bạ kỹ sư chuyên nghiệp…
Liên hiệp hội đã xây dựng các mối quan hệ hợp tác đa phương và song phương với các tổ chức chính phủ và phi chính phủ của các nước trên thế giới và khu vực châu Á – Thái Bình Dương bằng nhiều hình thức, như tổ chức các hội nghị khoa học quốc tế, cử hàng trăm đoàn đại biểu sang các nước học tập khảo sát và tham dự các hoạt động khoa học. Liên hiệp hội đặc biệt quan tâm phát triển quan hệ và phát huy năng lực của trí thức Việt kiều, góp phần giải quyết một số vấn đề khoa học – công nghệ, kinh tế - xã hội của nước nhà.
Tình hình nở rộ các báo chí, bản tin, ấn phẩm phổ biến khoa học, trang web vusta.vn của Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên cũng được coi là một hiện tượng nổi bật. Đặc biệt, phải kể đến sự ra đời của Nhà xuất bản Tri thức với dự án xây dựng “Tủ sách tinh hoa” nhằm góp phần xây dựng nền tảng tri thức cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Hơn 16 năm xây dựng và phát triển Quỹ hỗ trợ sáng tạo kỹ thuật Việt Nam cùng các giải thưởng sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam, hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn quốc, giải thưởng Sáng tạo KHCN Việt Nam, phong trào sáng tạo kỹ thuật của thanh, thiếu niên, các hoạt động Tuần lễ xanh, Tuần lễ Tin học cũng là những thành tựu đầy ấn tượng của Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên.
Phát huy vai trò thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động chính trị - xã hội, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam cùng với Liên hiệp hội Văn học - Nghệ thuật đã tập hợp trí thức đóng góp ý kiến cho nhiều dự thảo văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước, giới thiệu đề cử những trí thức xứng đáng tham gia vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Tôi tâm đắc với ý kiến của nhiều trí thức cho rằng, Liên hiệp hội Việt Nam cần phấn đấu trở thành tổ chức đi đầu trong việc xây dựng một xã hội dân sự lành mạnh và giàu năng lực để cùng với Nhà nước pháp quyền và khối doanh nghiệp giải quyết các vấn đề xoá đói, giảm nghèo, tạo nên xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là con đường còn dài và đầy gian nan, thử thách, song tôi tin rằng, chúng ta sẽ thành công nếu biết phát huy vốn xã hội và truyền thống đoàn kết yêu nước của dân tộc kết hợp với những thành tựu xây dựng xã hội dân sự của văn minh nhân loại.
P.V:Thưa Giáo sư - Viện sỹ, phần trên ông đã nêu nhiều thành tựu hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam 25 năm qua vừa có giá trị thực tiễn vừa có ý nghĩa lý luận sâu sắc về tầm nhìn phát triển. Vậy đề nghị ông nêu tóm tắt một số công tác trọng điểm đối với quá trình phát triển tiếp theo của Liên hiệp hội Việt Nam ?
Giáo sư - Viện sỹ Vũ Tuyên Hoàng:Công tác thì nhiều, nhưng để trả lời nhà báo ngay tức thời, tôi chỉ nêu một số việc mà tôi đang trăn trở suy nghĩ.
Trước hết, đó là việc tổng kết và xây dựng tầm nhìn và kế hoạch cho việc nâng cao năng lực hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam và các thành viên trong những năm trước mắt và tới năm 2020, khi mà nước ta trở thành một nước công nghiệp phát triển. Chúng ta cần sớm hoàn thành việc tổ chức các Liên hiệp hội địa phương trong cả nước, nâng cao chất lượng hoạt động của hội và các đơn vị khoa học – công nghệ trực thuộc theo tinh thần Chỉ thị 45-CT/TW của Bộ Chính trị. Đặc biệt cần tập trung đóng góp với Đảng và Nhà nước sớm ban hành Luật về Hội, để tạo môi trường pháp lý và điều kiện cho trí thức đóng góp tích cực hơn nữa vào công cuộc Đổi mới. Chức năng tư vấn, phản biện, giám định của Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên cũng cần phải được thể chế hoá cụ thể hơn nữa. Hoạt động của hệ thống Liên hiệp hội cần bước mạnh xuống cơ sở và thu hút giới trẻ. Để phát huy mạnh mẽ nguồn lực của trí thức khoa học – công nghệ trẻ thì không thể nào hô hào suông mà phải có những giải pháp thiết thực nhằm đem lại quyền lợi chính đáng cho họ (như việc đăng bạ kỹ sư chuyên nghiệp, việc giáo dục đào tạo…) và dẫn dắt họ nâng cao chất lượng nghề nghiệp, tạo nên sự nghiệp cho bản thân họ và đóng góp cho xã hội.
Về công tác thông tin, báo chí xuất bản, tôi cho rằng Liên hiệp hội Việt Nam cần phải nâng cao chất lượng hơn nữa các tổ chức toà soạn, làm sao để thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, vai trò xã hội mà vẫn có đủ nguồn tài lực để phát triển. Sắp tới, chúng ta thực hiện dự án xây dựng Cổng điện tử cho hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam . Tôi hy vọng hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam sẽ có thêm phương tiện để gắn kết, hợp tác với nhau trong các hoạt động của mỗi đơn vị, tổ chức, thích hợp với xu thế phát triển của xã hội thông tin.
Tôi đã viết tặng bạn đọc của Tờ tin KCP số Tết Mậu Tý (2008):
“Một trời lộng lẫy tin xao xuyến
Nhựa chảy cây non động lá cành”.
Đó cũng là lời chúc năm mới của tôi đến tất cả các bạn.
P.V:Chúng tôi vô cùng xúc động vì Giáo sư Viện sỹ đã có những lời hết sức tâm huyết đối với sự nghiệp phát triển của Liên hiệp hộiViệt Nam . Một lần nữa xin thay mặt anh chị em trong Ban Biên tập KCP chân thành cảm ơn Giáo sư Viện sỹ.







