Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 02/08/2010 16:03 (GMT+7)

Hạch toán thu nhập và chi phí sản xuất lúa của nông dân

Khoản mục

ĐX 05-06

HT 06

TĐ 06

ĐX 06-07

Diện tích (ha)

1

1

1

1

Năng suất (t/ha)

Gía Bán (đ/kg)

Thu nhập (đ/ha)

Chi phí (đ/ha)

Lãi (đ/ha)

Gía thành (đ/kg)

Tỷ lệ lãi/chi phí (%)

Hiệu suất 1 đồng vốn

6.90

2261,86

15.614.710

7.345.005

8.269.705

1.065

113,0

1,13

4.74

2268,50

10.750.420

8.048.308

2.702.112

1.698

33,6

0,34

4.15

2584,40

10.725.260

7.464.064

3.261.196

1.799

43,7

0,44

5.35

2637,96

14.113.086

7.682.119

6.430.967

1.436

83,7

0,84

(Ghi chú : Hạch toán chưa tính công lao động nhà, phương tiện, đất đai và máy móc sẵn có cũng như lãi suất ngân hàng mà còn mang tính chất «lấy công làm lời»).

Kết quả này được tính bình quân trên một ha sản xuất lúa cho tất cả các vụ. Điều cần nhấn mạnh ở đây là bà con không tính công lao động nhà, không tính phương tiện, đất đai và máy móc có sẵn cũng như lãi suất ngân hàng mà có tính chất « lấy công làm lời ». Nếu tính đúng và đủ thì lợi nhuận thực tế của nông dân còn thấp hơn nhiều.

Thông thường vụ Đông Xuân (ĐX) là vụ sản xuất chính trong năm mang lại năng suất cao và nhiều thuận lợi cho nông dân. Tuy nhiên, ở đây trong vụ ĐX năm 2006-2007 do bà con nông dân Hậu Giang bị dịch Rầy Nâu và bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá tấn công nên tổng diện tích bị mất trắng không thu hoạch được là 18.7 %. Dẫn đến năng suất thấp 5.35 t/ha, so với 6.90 t/ha trong vụ ĐX 2005-2006.

Trong điều kiện tương đối bình thường so sánh 3 vụ trong năm thì nhận thấy về năng suất lúa cao nhất là vụ ĐX, kế đến Hè Thu (HT) và Thu Đông (TĐ) lần lượt là 6.90, 4.74 và 4.15 t/ha.

Lãi /ha cao nhất trong vụ ĐX với trên 8 triệu đồng, kế đến TĐ gần 3,3 triệu đồng/ha. Vụ HT do chi phí cao nhất nên dẫn đến lãi ít nhất, bình quân chỉ là 2,7 triệu đồng/ha. Vì vậy, đa số nông dân rất ngán vụ HT vì mưa nhiều, chi phí sản xuất cao, năng suất thấp và lãi rất ít so với ĐX và nhiều hộ gia đình bị thất thu hoặc lỗ vốn.

Hiệu quả một đồng vốn gần như không thuyết phục về mặt kinh tế. Tức là 1 đồng vốn bỏ ra phải thu về bằng 1 đồng hoặc trên 1 đồng tiền lời. (>= 2). Mặc dầu có lãi cao nhất trong vụ DX 05-06 nhưng hiệu quả 1 đồng vốn chỉ có 1,13. Trong lúc đó hiệu quả 1 đồng vốn của vụ TĐ lại càng kém hơn chỉ đạt 0,44. Hiệu quả 1 đồng vốn vụ HT là kém nhất, một đồng vốn bỏ ra chỉ thu về được 0.34 đồng lời.

Khi tính đúng, tính đủ công lao động gia đình, lãi suất ngân hàng, tiền thuê mướn đất đai thì cách tính trên đây có khẳ năng trở thành «lãi giả mà lỗ thật» ở những vụ lợi nhuận thấp như HT và TĐ vì hiệu qủa đồng vốn nói chung quá thấp. Điều này nhấn mạnh sự chú ý của các cấp chính quyền và các cơ quan quản lí, thu mua xuất khẩu cần có chính sách ưu tiên thu mua lúa cho người nông dân đảm bảo có lãi ít nhất 30% so với giá thành và cơ chế bao tiêu sản phẩm, văn minh và hiện đại hóa hệ thống thu mua, chế biến và tiêu thụ lúa gạo xuất khẩu hiện nay.

Ngoài ra, cần phải có chiến lược nâng cao hiệu quả sản xuất lúa cho tất cả các vụ trong năm, hạ giá thành bằng việc giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất lúa bằng một biện pháp tổng hợp từ giống, kỹ thuật canh tác, áp dụng phân bón, bảo vệ thực vật và công nghệ sau thu hoạch. Nâng cao năng suất lúa HT và TĐ bằng việc trồng cách năm (năm trồng năm nghỉ để bồi dưỡng đất đai và có chiến lược luân canh lúa – cây trồng cạn bồi dưỡng đất (lúa ĐX – Màu XH/HT- Lúa TĐ), tăng cường các biện pháp hạn chế nhiễm mặn, rửa phèn và tích lũy phù sa bồi đắp hàng năm… Trong việc áp dụng phân bón thì nâng cao hiệu quả bón phân thông qua các nghiên cứu quy trình bón phân với liều lượng và chủng loại phân cụ thể cho từng mùa vụ và từng loại đất khác nhau trong tỉnh Hậu Giang (nói riêng và các huyện tỉnh vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) nói chung). Vì hiện nay nông dân tự phát bón theo kinh nghiệm, vụ HT chi phí bón phân cao hơn so với khuyến cáo và so với vụ ĐX (ngược với khuyến cáo hiện nay áp dụng phân bón thông thường cho vùng ĐBSCL). Đồng thời những khuyến cáo phân bón đang phổ biến là qúa cũ , không còn phù hợp và không sát từng vùng sinh thái riêng biệt.

Phân loại thành phần chi phí trong sản xuất lúa của nông dân

Theo nghiên cứu này có tất cả 16 khoản chi phí chính cho sản xuất một vụ lúa. Số liệu trong các bảng sau đây được tính toán lấy bình quân từ 8 vụ lúa trong 3 năm 2005, 2006 và 2007. Chúng tôi tạm chia thành 3 nhóm chi phí là (i) : Nhóm chi phí thuộc về vật tư,(ii) : Nhóm chi phí thuộc về thuê mướn và công lao động, (iii) : Nhóm chi phí thuộc về thu hoạch và công nghệ sau thu hoạch. Tuy nhiên, chi phí có thể thay đổi bất lợi cho nông dân khi giá vật tư gia tăng đột biến như trong năm 2008 vừa qua.

Về tổng quát, kết quả khảo sát nhận thấy rằng trong tổng chi phí 100%, thì chi phí về vật tư bao gồm giống, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) và phân bón chiếm gần 2/3 so với tổng chi phí (54.9%). Trong đó chi phí cao nhất là mua phân bón (33.7%), kế đến là mua thuốc BVTV các loại (12.8%), rồi đến chi phí về mua giống (8.4%).

Trong chi phí về giống, do tỷ lệ bà con mua giống ở địa phương và tự trao đổi còn nhiều nên chi phí này chưa cao. Nếu tính mua giá nguyên chủng với giá hiện nay 10 ngàn đồng/kg thì chi phí này gần gấp đôi (16.7%). Do đó việc áp dụng biện pháp sạ hàng hoặc 3 giảm 3 tăng nhằm giảm chi phí về giống để giảm giá thành là rất quan trọng.

Do bà con nông dân chưa đi sâu áp dụng nguyên tắc « 4 đúng » và phòng trừ tổng hợp (IPM) theo đúng nghĩa của nó nên còn lạm dụng thuốc BVTV, gây ô nhiễm môi trường và tăng thêm chi phí sản xuất.

Về phân bón, tuy đã có nhiều khuyến cáo áp dụng phân bón nhưng việc áp dụng của nông dân còn tùy tiện và không theo sát một khuyến cáo nào. Phân bón được bà con áp dụng theo kết quả điều tra phỏng vấn thì có nơi trái ngược với tài liệu khuyến cáo, tức là vụ ĐX thay vì sử dụng nhiều phân bón hơn 2 vụ HT và TĐ, nhưng theo nông dân thì sử dụng phân bón ở 2 vụ này nhiều hơn so với vụ ĐX. Nông dân nêu lí do như vụ ĐX có phù sa, 2 vụ kia mưa nhiều, rửa trôi cần bón nhiều phân…

Kết quả khảo sát này nẩy sinh nhiều đề nghị cần thiết nên tiến hành nghiên cứu lại thành phần và số lượng phân bón áp dụng cho từng tiểu vùng của tỉnh Hậu Giang (và ĐBSCL nói chung) qua từng vụ để có khuyến cáo rõ ràng và cập nhật hơn so với các khuyến cáo đã cũ không còn phù hợp cho nông dân. Tiến hành kiểm tra thường xuyên chất lượng các loại phân bón trên thị trường nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón và hạ giá thành sản xuất lúa.

Tổng chi phí thuộc nhóm công lao động chiếm tỷ lệ thấp nhất trong 3 nhóm (15.8%). Trong đó sửa soạn đất chiếm tỷ trọng cao nhất (6.4%). Tuy vậy, chúng ta cũng có khả năng giảm chi phí của nhóm này bằng cách trang bị thêm máy móc cho hộ nông dân, nhất là hiện nay có chủ trương kích cầu cho nông dân vay vốn lãi suất thấp để đầu tư trang thiết bị phục vụ sản xuất và cơ giới hóa lao động thì sẽ giúp hạ giá thành sản phẩm và giải phóng sức lao động cho nông dân, đặc biệt là lao động nữ.

Nhóm chi phí thứ 3 trong sản xuất lúa là chi phí thu hoạch và sau thu hoạch cũng chiếm khá cao gần 1/3 so với tổng chi phí (29.4%). Trong đó, chi phí thu hoạch còn rất cao (13.4%). Hiện tại (5/2009) ở tỉnh Hậu Giang được biết số máy gặt đập liên hợp (GĐLH) chỉ có khoảng trên 30 máy, chỉ hơn gấp đôi so với một xã như xã Phú Lợi (13 máy) của huyện Kiên Lương của tỉnh Kiên Giang, do điều kiện về đồng ruộng còn khó áp dụng máy GĐLH. Số lượng máy sấy lúa còn ít và giá thuê mướn còn cao. Tuy nhiên, nếu có chiến lược đồng bộ nhằm cơ giới hóa khâu thu hoạch và sau thu hoạch sẽ giải quyết được khó khăn này và việc áp dụng máy GĐLH ngày càng nhiều giúp hạ giá thành, giảm thất thoát sau thu hoạch, tăng chất lượng gạo xuất khẩu và giải quyết được việc thiếu lao động thu hoạch, giảm sự nặng nhọc và nâng cao đời sống cho người nông dân.

Ngoài ra còn có khả năng tổ chức tốt việc thu mua lúa ngay sau khi thu hoạch của nông dân bằng các hợp đồng bao tiêu sản phẩm, các dự án liên kết «4 nhà» cũng giúp cho việc giảm chi phí sau thu hoạch. Các khâu phơi, sấy, vận chuyển, làm sạch… thuộc về nhà thu mua với trang thiết bị hiện đại và đồng bộ sẽ giúp cho người nông dân hạn chế chi phí các khâu này và giảm hao hụt, tăng chất lượng gạo làm lợi cho đất nước và xã hội.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.