Hà Nội nên có biểu tượng “Chiến lũy Ô Cầu Dền”
Sắp tới nhân dân ta sẽ tổ chức kỷ niệm 60 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (19-12-1946 - 19-12-2006) Thủ đô Hà Nội có vinh dự mở đầu cuộc kháng chiến đó, với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, kéo dài 60 ngày đêm, đã đập tan hoàn toàn kế hoạch đánh chiếm Hà Nội trong 24 giờ của địch, góp phần có ý nghĩa vào việc tạo điều kiện, thời gian thuận lợi cho cả nước chuyển từ thời bình sang thời chiến. Hình thức chiến đấu đặc trưng của Hà Nội lúc bấy giờ là dựng các vật chướng ngại trên đường phố để chặn bước tiến của địch.
Cả Hà Nội hồi đó, không trục phố lớn nào không có vật chướng ngại mà mọi người thường gọi là ba-ri-cát hay ba-ri-e. Biết bao nhiêu bàn, ghế, giường tủ, kể cả sập gụ, tủ chè, thân cây, cột điện, toa xe lửa, toa tàu điện được chất đống trên các ngả đường. Nhiều ba-ri-cát kiên cố đã được dựng lên ở phố Ðội Cấn, Khâm Thiên, Hàng Bột, Phố Huế, Lò Ðúc, Ô Ðống Mác, ngã ba Ba Hàng, Vĩnh Tuy, trên đường Ðại La, v.v.
Ở đông nam Hà Nội, trận tuyến Ô Cầu Dền có vị trí trọng yếu như một “quyết chiến điểm”. Sự còn hay mất Ô Cầu Dền có tác động quyết định đến tình hình chiến lược của toàn Liên khu II.
Ụ chướng ngại vật ở Ô Cầu Dền có chiều dài chừng 16 m, chiều rộng 8 m, chiều cao 3m, sau cứ tôn lên cao dần theo yêu cầu chiến đấu, cuối cùng cao tới 4m50. Thân ụ chôn đứng ba hàng cọc, mỗi hàng 10 cây gỗ đường kính từ 35 cm tới 40 cm.
Sau đêm 19-12-1946, lại bóc ray và tà-vẹt đường tàu điện ken bốn mặt cho ụ thêm kiên cố. Lòng ụ lèn đất đá kết hợp tre, gỗ rải ngang từng lớp đầm chặt. Ðể ngăn chặn địch có hiệu quả, ta không chỉ đắp ụ, mà còn tổ chức các ổ chiến đấu ở trên ụ và ven bờ đê của sông Tô Lịch.
Ngay dưới chân ụ ở phía nam, ta còn khoét sâu vào làm nơi để vũ khí, đạn dược, nằm nghỉ giữa các trận chiến đấu và sơ cứu thương binh trước khi đưa về phía sau. Khi đó quân dân phía nam Hà Nội tự hào gọi chiến tuyến của mình là “chiến lũy Maginot” (Chiến lũy của Pháp chống phát-xít Ðức).
Chiếc ụ to lớn ấy, mặt tiền trông sang phố Huế, đứng sừng sững, chắn kín ngang hết mặt đường (kể cả vỉa hè) khiến cho xe tăng, xe bọc thép cùng tất cả các phương tiện cơ giới khác của địch đều không thể vượt qua, như một chiếc gai chọc vào mắt chúng.
Từ 5 giờ ngày 25 đến 28-12-1946 địch liên tiếp mở nhiều đợt tiến công vào ụ Ô Cầu Dền. Chúng cho máy bay, đại bác dội bom, bắn phá, rồi cho xe tăng, xe bọc thép dẫn bộ binh xông lên đánh phá hòng mở đường vượt qua ụ. Song, mọi đợt tiến công của chúng đều bị đẩy lùi.
Chiều 28-12-1946, sau mấy đợt chiến đấu, ta điều khẩu ba-zô-ka duy nhất của mặt trận Hà Nội lên ụ. Xạ thủ khẩu ba-zô-ka là một người “Việt Nam mới” (một hàng binh người Nhật Bản) tên là A-ka-su-da, lấy tên Việt là Tâm. Sau khi trườn được lên ụ, anh nhằm vào chiếc xe tăng địch nhả đạn, làm chiếc xe đang hùng hục lao lên, bỗng khựng lại bốc cháy. Anh còn bắn hai quả đạn nữa làm cháy thêm một chiếc xe bọc thép. Nắm thời cơ các chiến sĩ ta sung sướng, thừa thế xông lên phản kích khiến quân địch khiếp sợ hỗn loạn tháo chạy.
Những ngày tiếp theo, địch không ngừng tổ chức các đợt tiến công đánh phá trực tiếp vào ụ Ô Cầu Dền, nhưng đều thất bại. Ban ngày ta lui về phía nam chiến tuyến chống cự với địch, ban đêm lại vượt ụ, vượt đê vào tập kích các chốt của địch trong nội thành.
Tại đây, trong suốt thời gian chiến đấu, không phải chỉ có các đơn vị bộ đội và tự vệ “độc lực” đánh giặc, mà còn có cả một bộ máy lãnh đạo, chỉ huy và phục vụ. Ðó là Ủy ban Kháng chiến Liên khu II và Ủy ban Kháng chiến khu 17, Ban Chỉ huy mặt trận Ô Cầu Dền cùng đông đảo đoàn viên các đoàn thể cứu quốc (phụ nữ, thanh niên, nông dân, công nhân) với hàng trăm đồng bào tản cư còn đọng lại tham gia chiến đấu, làm các công việc cứu thương, tải thương, nấu ăn, tiếp tế, coi kho, đào đất đắp ụ, v.v. Nhiều nhà sư cũng tham gia chiến đấu.
Trong làng Quỳnh Lôi, bộ phận hậu cần đã tổ chức một cái bếp tập thể gồm hàng mấy chục chị chuyên lo việc nấu cơm, sẵn sàng cung cấp cho tất cả những ai đang tham gia chiến đấu tại Liên khu. Bếp của các chị đỏ lửa suốt đêm ngày.
Lùi xuống dưới một chút (đầu phố Trương Ðịnh bây giờ) là làng Hoàng Mai, đó là nơi ta đặt kho thóc và thực phẩm từ các nơi mang tới cung cấp cho mặt trận. Các loại cối xay, cối giã gạo hoạt động hết sức nhộn nhịp. Tiếng người gọi nhau, tiếng trâu bò kêu, lợn rống ầm ĩ không lúc nào ngớt. Các trạm y tế tiền phương thì đặt tại trường Công ích (ngõ chùa Liên) và nhà ông giáo Hiền (trong làng Quỳnh Lôi).
Với chiến công oanh liệt 21 ngày đêm kìm chân địch, “chiến lũy Ô Cầu Dền” rất xứng đáng là điển hình cho ý chí chiến đấu và tình nghĩa quân dân những ngày đầu toàn quốc kháng chiến tại thủ đô Hà Nội.
Gần đây chúng tôi trở lại thăm chiến lũy xưa Ô Cầu Dền, thấy cửa ô nay là một ngã tư lớn với nhiều trục giao thông cùng nhiều công trình hiện đại. Hiệu lơ Vũ Tạo và nhà hàng Hai Gầy giờ không còn nữa mà đã trở thành lòng đường.
Chiến lũy Ô Cầu Dền năm xưa nay là khoảng không gian ở chính giữa ngã tư, nối đường Ðại Cồ Việt với đường Trần Khát Chân. Nếu xây một tượng đài ngay ngã tư để ghi nhớ chiến công trước đây sẽ không thích hợp với cảnh quan. Chỉ sử dụng dải cỏ phân cách đường đôi phía Ðại Cồ Việt hoặc Trần Khát Chân, xây một bức tường dài chừng 20 m, cao 4m, hai mặt tường đắp phù điêu, tượng trưng cho “Chiến lũy Ô Cầu Dền” có lẽ là phù hợp hơn cả.
Hà Nội đã có nhiều tượng tròn, nhiều tượng đài cao to, nay làm một bức tường tượng trưng cho một chiến lũy sẽ đỡ đơn điệu. Biểu tượng này chắc chắn sẽ góp phần làm hài hòa, làm đẹp thủ đô và phát huy tốt việc giáo dục truyền thống.








