GS.TS Lê Vân Trình: Cần loại bỏ việc sử dụng amiang
Hiện nay Việt Nam luôn đứng trong top 10 nước tiêu thụ amiang nhiều nhất thế giới, GS có thể cho biết về tình hình sử dụng amiang tại Việt Nam như thế nào?
GS.TS Lê Vân Trình:Hiện lượng tiêu thụ amiang tại Việt Nam có xu hướng tăng, nếu năm 2008 lượng amiang tiêu thụ tại Việt Nam là xấp xỉ 50.000 tấn (đứng thứ 10), năm 2010 là khoảng 60.000 tấn (đứng thứ 9), nhưng đến năm 2012 là gần 79.000 tấn (đứng thứ 6).
So với thế giới, ngành sản xuất tấm lợp amiang – xi măng ở Việt Nam còn rất non trẻ. Ở miền Bắc, trước năm 1975 có một cơ sở sản xuất lợp amiang – xi măng của Liên hiệp vật liệu xây dựng, nhưng quy trình công nghệ hoàn toàn thủ công nên không thành công. Năm 1986, công ty Caric thuộc Bộ Công nghiệp đã sao chụp lại thiết kế của Đông Nai và hợp tác với công ty vật liệu xây dựng Thái nguyên tiến hành gia công lắp đặt tại Thái Nguyên một dây chuyền nhưng cũng không hoạt động được. Năm 1988, Viện Cơ học ứng dụng miền Nam thuộc Viện Khoa học Việt nam được giao nhiệm vụ nghiên cứu sản xuất thử tấm lợp không amiang bằng các loại sợi hữu cơ và sợi PP bằng phương pháp dung ép cũng không đem lại kết quả. Cuối cùng, nhóm thiết kế của Viện Cơ học ứng dụng miền Nam với sự tham gia của một số chuyên gia kỹ thuật chuyển sang nghiên cứu tấm lợp amiang – xi măng theo công nghệ xeo của Nga và đã đạt kết quả tốt. Năm 1989 mẻ tấm lợp đầu tiên do Việt Nam tự thiết kế chế tạo đã ra đời với công suất 1200 tấm/ngày. Năm 2008 là năm đạt sản lượng cao nhất, xấp xỉ 100 triệu m2 tấm lợp chủ yếu là tấm sóng lớn và khoảng 15% là tấm phẳng.
Amiang đang là mối đe dọa lớn đối với người lao động, nhất là những người tiếp xúc trực tiếp và lâu năm, GS có thể cho biết về vấn đề này?
GS.TS Lê Vân Trình:Theo thống kế trong Hồ sơ quốc gia về amiang năm 2010, tổng số người lao động trực tiếp trong các dây chuyền sản xuất: tấm lợp AC, mỏ phanh, phân lân nung chảy, đóng tàu Bạch Đằng là những người có nguy cơ cao, đặc biệt những người có tuổi nghề từ 16 năm trở lên, chiếm trên 48.1%, đây là nhóm phải đặc biệt chú ý vì khả năng mắc bệnh của nhóm này sẽ khá lớn do số năm tiếp xúc đủ để có thể mắc các bệnh liên quan đến amiang.
Bệnh bụi phổi amiang đã được đưa vào danh sách bệnh nghề nghiệp được nhà nước bồi thường từ năm 1976, nhưng có nhiều lý do, cho đến nay mới có 3 trường hợp được công nhận là bệnh bụi phổi amiang và được bồi thường.
Việc phát hiện co 3 trường hợp bị bệnh phổi amiang, có thể là do những nguyên nhân như việc giám sát sức khỏe cho người lao động chưa liên tục, người lao động khi chuyển công việc không được theo dõi về tiền sử tiếp xúc với amiang hoặc khi nghỉ hưu, người lao động ít được quan tâm về bệnh amiang; Không có các trung tâm đăng ký người lao động tiếp xúc với amiang nên khó theo dõi được lịch sử tiếp xúc; Phần lớn các doanh nghiệp sản xuất tấm lợp có tuổi đời trẻ, dưới 15 năm, trong khi thời gian ủ bệnh lại từ 15 năm trở lên nên người lao động tại các cơ sở sản xuất nhỏ ít có điều kiện kiểm tra sức khỏe; Kinh nghiệm chẩn đoán, phát hiện amiang còn ít, nguồn lực kém trong khi đó bệnh amiang khá phức tạp, không dễ phát hiện; Ngoài ra, các nghiên cứu dịch tễ học của Việt Nam còn chưa sâu.
Mặc dù các kết quả điều tra về những bệnh liên quan đến amiang ở Việt Nam chưa đưa ra những con số báo động về tỷ lệ mặc bệnh và tỷ lệ chết do amiang vì nhiều lý do khác nhau nhưng các nghiên cứu của những nước tiên tiến trên thế giới đã chỉ ra tính nguy hiểm của amiang cũng như tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết ngày càng tăng cao của những người tiếp xúc với amiang, Việt Nam nên có lộ trình cấm sử dụng amiang trong sản xuất và đời sống nhằm ngăn chặn hiểm họa sau này cho con cháu chúng ta.
Vậy theo GS cần có biện pháp để bảo vệ sức khỏe cho người lao động?
GS.TS Lê Vân Trình:Thứ nhất là lập kế hoạch về việc loại bỏ các bệnh có liên quan tới amiang, trong đó có thông tin về việc sử dụng trong quá khứ và hiện tại, ước tính về những hậu quả ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế và xã hội, về việc tiếp tục sử dụng amiang trắng và đệ trình một nhóm các biện pháp được chia theo từng giai đoạn nhằm loại bỏ việc sử dụng amiang cũng như phòng, chống, hạn chế việc lây nhiễm các bệnh có liên quan đến amiang. Việc loại bỏ việc sử dụng amiang cần đảm các yêu cầu như các doanh nghiệp có đủ thời gian để chuyển đổi công nghệ, dây chuyên sản xuất từ có amiang sang không amiang; Nhận thức của cộng đồng về nguy hại của amiang được nâng cao dần; Đảm bảo đáp ứng nhu cầu thị trường những sản phẩm không amiang; Đáp ứng sự hòa nhập của Việt Nam với khu vực và quốc tế.
Thứ hai là cần có những cơ chế tài chình để giảm thiểu việc sử dụng amiang trắng, như thuế nhập khẩu, cấp khoảng vay ưu đãi cho việc chuyển đổi sang các công nghệ không sử dụng amiang, thiết lập những quỹ quốc gia cho việc loại bỏ các căn bệnh có liên quan tới amiang với việc đóng góp từ các cơ quan có trách nhiệm, bảo hiểm xã hội và những nguồn hỗ trợ của chính phủ.
Thứ ba là tổ chức việc phát hiện sớm, thông báo, ghi chép, báo cáo về các bệnh có liên quan tới amiang thông qua việc cải thiện khả năng chẩn đoán và phát hiện sớm bệnh bụi phổi amiang và sự rối loạn có liên quan đến amiang chưa khởi phát ác tính, chẩn đoán bệnh lư và lâm sàng của u trung biểu mô. Thiết lập các mối quan hệ nhân quả giữa ung thư phổi và ung thư thanh quản tới việc tiếp xúc với amiang. Đưa tất cả những loại bệnh có liên quan đến amiang vào danh sách những bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm.
Thứ tư là động viên, khuyến khích doanh nghiệp chuyển đổi công nghệ không amiang. Có định hướng cho doanh nghiệp về sản xuất vật liệu không amiang. Tư vấn trong công tác thiết kế, chế tạo, lắp đặt để đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi công nghệ và dây chuyền với quy mô toàn quốc. Đồng thời tiếp tục nghiên cứu các sản phẩm xi măng – sợi khác ngoài sợi PVA.
Thứ năm là tăng cường kiểm soát và giám sát các cơ sở sản xuất tấm lợp về môi trường lao động và sức khỏe người lao động. Phát hiện kịp thời những trường hợp mắc bệnh, nghi ngờ liên quan đến amiang để có các giải pháp chữa, điều trị kịp thời. Tăng cường công tác nghiên cứu để phát hiện những trường hợp mắc bệnh amiang đối với những người nghỉ hưu hoặc chuyển đổi công tác. Xây dựng các cơ chế để hình thành những trung tâm đăng ký người tiếp xúc với amiang nhằm có chế độ bồi thường, khám, chữa bệnh cho người lao động tiếp xúc với amiang.
Xin cảm ơn GS!








