GS.TS Lê Thị Hợp: Đầu tư cho dinh dưỡng là đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực
GS có thể cho biết về thực trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em như thế nào?
Theo kết quả điều tra tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi cho thấy suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ không đạt so với chuẩn tăng trưởng của Tổ chức Y tế thế giới vẫn còn ở mức cao: khoảng 29,3% trẻ em toàn quốc bị suy dinh dưỡng thấp còi. Hai vùng sinh thái có tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi cao nhất là Tây Nguyên (35,2%) và Trung du miền núi phía Bắc (33,7%).
Kết quả về thực trạng cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng cả thể nhẹ cân và suy dinh dưỡng thể thấp còi của các tỉnh miền núi (Lào Cai, Hà Giang, Bắc Kạn, Lai Châu, Điện Biên…) đều cao hơn các tỉnh đông bằng sông Hồng (Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam…); cao hơn số liệu toàn quốc và đặc biệt cao hơn thành phố Hà Nội và Hải Phòng. Tỷ lệ suy dinh dưỡng cao nhất là Lào Cai là 40,7% trẻ bị suy dinh dưỡng thấp còi và 26% suy dinh dưỡng nhẹ cân; Tiếp theo là Hà Giang 38% trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thấp còi, Lai Châu có khoảng 37,2% trẻ suy dinh dưỡng thấp còi. Phân tích nguyên nhân suy dinh dưỡng một số tỉnh miền núi cho thấy kiến thức dinh dưỡng kém và thực hành nuôi dưỡng trẻ không hợp lý của các bà mẹ, trình độ văn hóa của mẹ thấp, các gia dình thiếu ăn và đông con là những nguyên nhân chủ yếu liên quan đến suy dinh dưỡng của trẻ nhỏ.
Ngoài những nguyên nhân chủ yếu như trên đã nói, vậy còn có nguyên nhân nào để gây ra suy dinh dưỡng trẻ em ở các tỉnh miền núi, thưa GS?
GS.TS Lê Thị Hợp:Nguyên nhân suy dinh dưỡng nói chung rất đa dạng và phức tạp, tuy nhiên có một số yếu tố đặc thù của miền núi ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe của người dân, đặc biệt là bà mẹ và trẻ em, trước tiên đó là khẩu phần ăn của trẻ không đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng: thiếu về số lượng và kém về chất lượng.
Thứ hai là việc tiếp cận với các thông tin còn khó khăn dẫn đến thiếu kiến thức và thực hành dinh dưỡng hợp lý. Thực hành nuôi dưỡng trẻ không hợp lý còn có thể do các phong tục tập quán lạc hậu của các bà mẹ dân tộc như cho ăn bổ sung quá sớm, cho trẻ ăn kiêng rau xanh, dầu mỡ…
Thứ ba là dịch vụ dinh dưỡng và y tế kém do thiếu bác sỹ, thiếu cán bộ dinh dưỡng… và cơ sở vật chất nghèo nàn.
Thứ tư là lấy chông sớm, có thai và sinh con sơm khi cơ thể mẹ chưa phát triển đầy đủ, chưa có kiến thức về chăm sóc nuôi dưỡng trẻ nên những trẻ sinh ra có nguy co suy dinh dưỡng cao.
Thứ năm là kết hôn cận huyết cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến sức khỏe và bệnh tật của những thế hệ sau.
Thứ sáu là tệ nạn uống rượu quá nhiều ngay cả trong giờ làm việc, đặc biệt là sử dụng các loại rượu nấu ngay tại địa phương chưa được khử các chất độc hại nên dễ gây tổn hại cho gan, tế bào thần kinh;gây ung thư gan, vòm, thực quản…; và có nguy cơ sinh ra những đứa trẻ yếu ớt, bị suy dinh dưỡng.
Thứ bảy là một số nơi còn sống du cảnh, du cư, chưa biết tạo dựng cuộc sống, tạo nguồn thực phẩm ổn định cho bữa ăn hàng ngày.
Thứ tám là vấn đề vệ sinh ăn uống, vệ sinh môi trường còn chưa được quan tâm, nhất là thói quen sử dụng một số thực phẩm không an toàn; thói quen nuôi gia súc, gia cầm thả rông hoặc làm chuồng trại sát gần nhà. Nguồn nước sinh hoạt và ăn uống bị ô nhiễm do thả rông súc vật, cầu tiêu không hợp vệ sinh cũng là những yếu tố nguy cơ gây bệnh và ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng.
Vậy theo GS cần có giải pháp nào để cải thiện tình trạng dinh dưỡng của các tỉnh miền núi?
GS.TS Lê Thị Hợp:Trước hết là tăng cường truyền thông giáo dục dinh dưỡng và sức khỏe cho cộng đồng đặc biệt là cho cán bộ y tế, phụ nữ tuổi sinh đẻ và các bà mẹ đang nuôi con nhỏ. Xây dựng và mở rộng câu lạc bộ dinh dưỡng phù hợp với miền núi.
Phát triển ô dinh dưỡng hộ gia đình và tạo nguồn thực phẩm an toàn tại địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho gia đình, đặc biệt là bà mẹ và trẻ em.
Xây dựng nguồn nhân lực về y tế và dinh dưỡng, đầu tư cơ sở và trang thiết bị cho các trạm y tế và trung tâm y tế các huyện miền núi. Tăng cường tập huấn kiến thức dinh dưỡng cho cán bộ, cộng tác viên y tế và phụ nữ.
Triển khai các giải pháp can thiệp phòng chống suy dinh dưỡng thấp còi như bổ sung vi chất dinh dưỡng, chăm sóc dinh dưỡng sớm cho phụ nữ trước khi mang thai, trong thời kỳ mang thai và giai đoạn trẻ nhỏ.
Cần có sự phối hợp liên ngành và chỉ đạo của địa phương để thay đổi các tập quán dinh dưỡng lạc hậu, tệ nạn uống rượu nhiều cũng như tệ nạn tảo hôn và hôn nhân cận huyết nhằm góp phần cải thiện sức khỏe nhân dân, giảm suy dinh dưỡng thấp coi và nâng cao tâm vóc của người Việt Nam.
Xin cảm ơn GS!








