GS. Phan Huy Lê: Cần vạch trần tham vọng bành trướng xuống biển Đông của Trung Quốc
PV:Thưa giáo sư, là người trực tiếp tư vấn làm hồ sơ Châu bản trình UNESCO, ông đánh giá thế nào về ý nghĩa pháp lý quốc tế của Châu bản khi trở thành Di sản tư liệu thế giới trong việc khẳng định chủ quyền đất nước?
GS Phan Huy Lê:Việc UNESCO công nhận hồ sơ Châu bản triều Nguyễn của Việt Nam là Di sản tư liệu Chương trình Ký ức thế giới là rất đáng mừng. Vì điều đó không chỉ tôn vinh một giá trị văn hóa của Việt Nam, mà còn góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa - Trường Sa.
UNESCO nhấn mạnh các giá trị của Châu bản theo tiêu chí Tư liệu thế giới: tính xác thực, đặc biệt quí hiếm và ý nghĩa quốc tế. Theo chế độ văn thư triều Nguyễn, các văn bản do Nội các trình lên hoàng đế phê duyệt, văn bản gốc lưu tại Nội các và “phụng sao” một số bản giao cho các Bộ, cơ quan và địa phương liên quan chịu trách nhiệm thi hành. Do đó, Châu bản là bản gốc và duy nhất, độc bản. Châu bản trong đó có tấu sớ của các địa phương tâu lên xin sự phán quyết của hoàng đế nên có giá trị phản ánh không những chủ trương, chính sách của triều đình, mà cả tình hình toàn diện của đất nước, kể cả quan hệ bang giao với nước ngoài. Ngoài ra Châu bản còn chứa đựng những thông tin trung thực để nghiên cứu về kỹ thuật làm giấy, chữ viết qua các giai đoạn, các loại ấn chương, bút tích của nhà vua… Ngoài giá trị tổng quát, Châu bản còn có giá trị đặc biệt về chủ quyền trên biển Đông của Việt Nam.
PV:Xin giáo sư nói rõ hơn về nội dung khẳng định Hoàng Sa - Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam trong Châu bản?
GS Phan Huy Lê:Về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, chúng ta có đủ các căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định. Việt Nam đã quản lý và thực thi chủ quyền liên tục hai quân đảo này ít nhất từ thế kỷ XVII. Thời nhà Nguyễn, nhất là dưới triều vua Gia Long và Minh Mệnh, công việc quản lý và thực thi chủ quyền được tiến hành đều đặn và tổ chức rất chặt chẽ. Điều đó được ghi nhận qua nhiều loại tư liệu, trong đó Châu bản là loại tư liệu đặc biệt có giá trị. Trong 773 tập Châu bản còn bảo tồn đến nay, có 18 tờ Châu bản liên quan đến Hoàng Sa, Trường Sa. Kể thêm tờ Châu bản thời Bảo Đại do nhà sử học Phan Thuận An ở Huế lưu giữ và tặng Chính phủ, là 19 tờ. Nội dung chủ yếu của các tờ Châu bản này là phản ánh trung thực tổ chức và hoạt động quản lý của nhà Nguyễn trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Châu bản là một di sản văn hóa vô giá của quốc gia. Vừa rồi, ngày 14-5-2014, Châu bản được UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương (và rồi đây, di sản này có đủ giá trị để nâng cấp lên Di sản Tư liệu thế giới). Việc vinh danh đó diễn ra đúng vào lúc nhân dân cả nước đang đấu tranh phản đối hành động Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng thềm lục địa thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Đấy là một sự trùng hợp thú vị và có ý nghĩa vì giá trị văn hóa và pháp lý của Châu bản đã vượt qua phạm vi quốc gia nâng lên tầm quốc tế.
PV:Việc Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào biển Việt Nam gây sự phẫn nộ dư luận trong nước và quốc tế. Với tư cách Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, xin giáo sư cho biết quan điểm trước vấn đề này?
GS Phan Huy Lê:Đó là sự vi phạm trắng trợn chủ quyền Việt Nam, vì vị trí đặt giàn khoan nằm sâu trong thềm lục địa thuộc đặc quyền kinh tế của nước ta, vi phạm Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Hơn nữa, cùng với giàn khoan, Trung Quốc còn có đoàn tàu hộ tống lớn, có cả tàu chiến, đe dọa, thậm chí đã đâm và dùng vòi rồng tấn công tàu Việt Nam làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền tức đã dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực. Việc này cũng vi phạm Hiến chương Liên hợp quốc về quan hệ giữa các quốc gia và vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC).
Ngoài sự vi phạm chủ quyền Việt Nam ở trên, điều đặc biệt là chúng ta cần vạch trần hai lập luận cực kỳ sai trái của Trung Quốc, để dư luận toàn thế giới hiểu rõ tham vọng và mưu đồ sâu xa của họ.
Trung Quốc cho rằng, giàn khoan ở gần đảo Tri Tôn tức nằm trong nước thuộc chủ quyền của họ. Tri Tôn là một đảo của quần đảo Hoàng Sa, thuộc chủ quyền Việt Nam lâu đời, năm 1974, Trung Quốc đã dùng vũ lực để xâm chiếm mà Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã kịch liêt phản đối và lên án. Sau năm 1975, Chính phủ Việt Nam thống nhất liên tục khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa cũng như Trường Sa, liên tục phản đối hành động Trung Quốc chiếm đóng trái phép hai quần đảo của Việt Nam. Do đó, lập luận trên của Trung Quốc là lấy một hành động xâm lược trong quá khứ để biện minh cho hành động vi phạm chủ quyền Việt Nam hiện nay. Về mặt lịch sử và lập luận, đó là sự tráo trở.
Cần nhấn mạnh đây là một chiến lược bành trướng đầy tham vọng của Trung Quốc. Đối với Việt Nam, vụ cắt cáp của tàu Bình Minh là một bước thăm dò và việc đưa giàn khoan vào vùng biển Việt Nam là bước thử nghiệm rất cao và trắng trợn tham vọng của Trung Quốc. Công ty Dầu khí Hải Dương của Trung Quốc đã tuyên bố công khai giàn khoan khổng lồ này là “biên giới di dộng”, dàn khoan tới đâu là biên giới Trung Quốc mở rộng tới đó. Thật là một thái độ ngang ngược, bất chấp chủ quyền của các quốc gia khác.
Chiến lược “đường lưỡi bò” không chỉ đe dọa Việt Nam mà tất cả các nước Đông Nam Á ven biển, đe dọa hòa bình và an ninh khu vực Đông Nam Á, đe dọa an ninh, an toàn hàng hải qua biển Đông của các nước trên thế giới. Việc đặt giàn khoan Hải Dương 981 nếu thành công, chắc chắn Trung Quốc sẽ tiếp tục những bước đi mới, dùng sức mạnh từng bước áp đặt để hiện thực hóa chiến lược bành trướng xuống biển Đông. Việt Nam vừa đấu tranh làm thất bại hành động Trung Quốc vi phạm chủ quyền trên biển, vừa cảnh báo cho các nước trong khu vực và trên thế giới biết rõ đây là một bước thăm dò để thực hiện một chiến lược bành trướng qui mô và sâu xa, đe dọa lợi ích của cả khu vực và thế giới.
PV:Xin cảm ơn giáo sư!








