Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 29/12/2006 00:07 (GMT+7)

Góp bàn về bảo tồn và phát huy nghệ thuật ca trù

Nghệ thuật ca trù là sự phối hợp tuyệt vời giữa ca từ với giọng hát hòa cùng các nhạc khí: phách, đàn đáy, trống chầu. Không có giọng hát ca trù không có ca trù. Không có đào nương bất thành ca trù. Khi bàn đến ca trù, không thể không nói tới đào nương.

Để trở thành đào nương phải hội được nhiều tiêu chuẩn khắt khe như giọng hát, năng khiếu âm nhạc (thẩm âm, gõ phách), tri thức âm nhạc và văn thơ, trí nhớ, lòng đam mê và kiên trì, tư cách; nghệ thuật xử lý ca từ gắn với thanh điệu, gắn với nội dung... Không những thế đào nương còn phải được các thầy giỏi, có kinh nghiệm và tâm huyết đào tạo cơ bản, lâu dài bằng phương thức truyền khẩu để làm sao nắm bắt, làm chủ được những kỹ thuật nhà nghề. Ngoài ra đào nương phải thông thạo cách chuyển giọng nhuần nhuyễn, không thô cứng, thuộc giai điệu của từng thể hát và thuộc hết các thể trong các lối hát thi, hát cửa đình và hát chơi. Đó là chưa kể đến việc đào nương phải vừa hát, vừa tự đệm phách một cách nhịp nhàng, khéo léo đồng thời lại phải phối hợp với đàn và trống cho đúng quy cách, biết xử lý ca từ cho hợp với khung giai điệu đã có sẵn của thể hát.

Trong chế độ quân chủ từ triều Lê đến triều Nguyễn, đã từng có giai đoạn ca trù được đặt ở vị trí trang trọng. Đào nương được tôn quý, thậm chí có nàng trở thành vương phi, hoàng hậu. Không chỉ thế, có đào nương được tôn làm thần, lập đền miếu thờ tự.

Thật tiếc, đến giai đoạn sau, hát ả đào không còn giữ được phong thái như xưa. Lối hát chơi ở ca quán bị lạm dụng, trở thành thứ tiêu khiển có khi là của những kẻ phàm phu, tục tử. Ca nương cũng bị gắn những lời đố kỵ, gièm pha như một “vật mang họa”, “lấy quan quan cách"...

Sự nhầm lẫn đã khiến trong mấy chục năm dài, vốn quý sinh hoạt nghề nghiệp ca trù không được duy trì trong hệ thống gia đình, dòng họ, tổ chức phường nghề, truyền nghề, giỗ tổ nghề... Vì bị coi là sản phẩm của lối ăn chơi sai lạc nên ca trù không còn chỗ đứng trong những hoạt động văn hóa quảng đại quần chúng. Mặt khác, khi bài trừ mê tín dị đoan thì việc cúng lễ thần thánh cũng bị dẹp bỏ luôn và như thế, mặc nhiên ca trù cũng cùng chung số phận, bởi còn đâu môi trường lễ hội tín ngưỡng để ca trù có dịp được hát ở cửa đình.

Trong những năm 80 của thế kỷ XX, khi nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đi sưu tầm ca trù thì: “Đa số nghệ nhân (...) đều đã ngoài 60 tuổi. Có người chỉ nhớ được nửa bài. Có bài chỉ nhớ được tên gọi. Và rất tiếc là có người không dám nhận mình là đã làm nghề đàn hát này”(1). Suốt chừng ấy năm vắng bóng nhưng nhờ những nỗ lực, sáng kiến của một số cá nhân và tổ chức trong việc sưu tầm, giới thiệu, phục hồi, hiện nay ca trù đã gây được sự chú ý trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, khó khăn và thử thách chưa phải đã hết. Để có thể đưa ra được những đề xuất góp phần bảo tồn và phát huy bộ môn nghệ thuật này, chúng ta thử nhìn bao quát vào thực trạng ca trù cũng như người hát và nghệ thuật hát ca trù thời gian gần đây.

Từ năm 1986, đất nước đổi mới, các lễ hội dần dần được khôi phục và sau 1993, đôi nơi ở Bắc Bộ có hát cửa đình (nhưng không có múa). Tại Hà Nội, một số lễ hội đã đưa ca trù trở lại phục vụ trong cả phần lễ và phần hội như ở đình Cót, chùa Láng, đình ứng Thiên, đình Kim Liên, đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đình Quan Nhân, đình Trung Kính, đình Đăm, đình Sủi, đền Thạch Bàn, đình Giảng Võ,... Gần đây, khi các làng mở hội số người hiểu biết tục lệ “nhập tịch thì xướng ca”, càng ít đi và càng vắng hẳn người biết cầm chầu. Bởi thế, lễ hội không duy trì hát thờ cửa đình nữa, đơn cử như hội đình Cót, hội chùa Láng, hội đền Thạch Bàn...

Do tình hình nói trên, nhiều thể hát múa đã lần lượt bị thất truyền. Múa hát Bỏ bộ chỉ còn ở Lỗ Khê (Đông Anh, Hà Nội). Ở Thượng Mỗ (Đan Phượng, Hà Tây), thể múa hát này chỉ tồn tại đến khoảng năm 1993, vì các nghệ nhân mất dần, lớp trẻ không kế tục. Múa hát Bài bông đã thất truyền. Có những nghệ nhân như NSND Quách Thị Hồ (đã mất - Hà Nội), Nguyễn Thị Chúc (Hà Tây), Tô Thị Chè (Hải Phòng) tuy rằng cụ thân sinh chuyên đi hát cửa đình nhưng đến đời mình chỉ đi hát ca quán, nên không học được. Sau năm 1955, thể hát múa này chỉ còn lại ít nhiều trong trí nhớ một vài người như NSƯT Phó Thị Kim Đức (Hà Nội), nghệ nhân Nguyễn Thị Lệ (Bắc Ninh), Nguyễn Thị Diện (Thanh Hóa)... Múa Tứ linh cũng đã thất truyền.

Về người hát, lớp nghệ nhân có nghề, hầu hết đã qua đời đem theo ngón nghề của mình chưa kịp truyền lại cho lớp trẻ. Bà Nguyễn Thị Lệ (Bắc Ninh) tuổi 90 than thở: “Làng tôi thuở trước có vài chục kép đàn, hàng trăm đào hát, nay chỉ còn lại hai chị em tôi. Thế là thất truyền. Tôi cũng quên hết, bỏ gần 60 năm nay, thỉnh thoảng nhớ câu nào thì cũng chỉ để ru cháu mà thôi” (2).

Một cây đại thụ trong lối hát cửa đình có giọng hát uyển chuyển, sâu lắng như bà Phạm Thị Mùi thì cách đây chục năm, khi gần tuổi 80, mới đào tạo được cho vài học sinh tại chốn tổ. Tiếc rằng, chưa có một người nào (kể cả cô cháu ngoại) kế thừa được vốn liếng đó. Do thời gian quá ngắn (vài tháng), kinh phí hạn hẹp, vì thế cả thầy và trò khó có thể duy trì được việc truyền nghề và học nghề.

Đào Vóc lại còn thiệt thòi hơn, lưng bà còng gập, câu nhớ, câu quên sau 70 năm bỏ bẵng, nay hơi đã hụt và những ngón tay ngày nào gieo phách diệu nghệ là vậy, giờ đã không còn mềm mại nữa. Tiếc thay đào Vóc đã không truyền lại được cho ai những kiểu nhả chữ linh hoạt, nghệ thuật xử lý ca từ thật điêu luyện của bà.

Lớp trẻ bị đứt đoạn do hầu hết con cháu các nghệ nhân không được truyền nghề. Có vài người trong số con cháu của họ cũng được học nhưng lại chưa đến nơi đến chốn. Vì thế lớp trẻ chưa thể đủ điều kiện để kế tục các nghệ nhân lớp trước.

Trong khi đó, một số người đã thành danh ở bộ môn nghệ thuật khác hoặc thậm chí có người đã về hưu, nhàn rỗi, thấy mọi người thích ca trù cũng bằng mọi cách tiếp cận cấp tốc (nghe băng, nghe hát, thụ giáo nghệ nhân giỏi vài buổi) để đi hát ca trù. Vì “Ăn xổi ở thì” như vậy, nên phần lớn họ không gõ phách được hoặc gõ sai quy cách, thậm chí có những người chỉ biết dở dang, sai cung, lạc điệu.

Năm 2002, tại Hà Nội có lớp đào tạo cấp tốc diễn viên ca trù trẻ trong 2 tháng cho 80 người của 13 tỉnh thành (trong đó, số diễn viên hát chiếm hơn nửa). Sau 2 tháng các diễn viên (từ chưa biết gì), khi trở về địa phương trở thành những người biểu diễn, đồng thời là thầy giáo(!). Phương pháp đào tạo và truyền bá có nguy cơ “góp phần” làm cho ca trù bị biến dạng: không có lòng bản, chẳng có kỹ thuật, có cô cũng cầm phách gõ, cũng "ứ, hự..." mà vẫn không phải là hát ca trù.

Ca trù đã lan truyền rất rộng thành phong trào, "mốt" đàn hát và thích nghe. Mặc dầu vậy, những người có nghề và có lương tâm chẳng thể nào không day dứt, lo ngại cho tương lai của ca trù.

Có lẽ, trong lịch sử phát triển, chưa khi nào, ngay cả thời thực dân Pháp chiếm đóng, ca trù bị lạm dụng, giá trị nghệ thuật của ca trù xuống dốc như ngày nay. Thời xưa có đào hát và còn có bao thi sĩ, khách văn chương biết thưởng thức (3). Còn nay? Người nghe và người có nghề chỉ đếm đầu ngón tay. Nghệ nhân dân gian Nguyễn Phú Đẹ - danh cầm 84 tuổi than thở: "Cứ theo lối này thì ca trù có lẽ xuống mất. Nếu người nào biết nghe, họ sẽ chán và không chịu được..."(4).

Ca trù hiện nay tuy đã tạo ra cơn sốt nhưng nhìn chung nó chỉ có bề rộng mà chiều sâu không có bao nhiêu. Vì sao vậy? Bởi ca trù đã và đang được phục hồi, phát triển trong sự qua quýt hời hợt. Chỉ vài tháng đào tạo đã trở thành đào nương thậm chí trở thành thầy dạy. Vậy thì đã học được gì? Chính vì vậy, họ hát ca trù thật lạ! Đào nương cũng "Đầu mày cuối mắt" như ai? Cần hiểu rằng ca trù rất khó, nó đòi hỏi cả thầy và trò phải nỗ lực hết sức trong một thời gian không ngắn. Đôi khi trong cuộc hát họ khua phách loạn lên, thậm tệ hơn, tay còn uốn lượn chống bộ phách dưới cằm nở nụ cười hết sức tình tứ. Động tác đó khiến "quan trên" cũng mát lòng chứ nói gì đến kẻ bình dân! Ca trù là một loại hình nghệ thuật có nhiều luật lệ rất khắt khe. Đào nương khi hát hoàn toàn không được liếc mắt đưa tay hay những điệu bộ cử chỉ tình tứ khác... Vậy mà hiện nay, lại có những cô "đào trẻ" đã quên đi hoặc chưa có đủ thời gian để tìm hiểu những luật lệ nhà nghề. Họ đã thể hiện không đúng tư cách cũng như sự trang nghiêm của ca nương. Chẳng trách, cô đầu một thời bị mang tai mang tiếng!

Thiết nghĩ, muốn phục hồi ca trù, môn nghệ thuật truyền thống cổ xưa, nên có sự quan tâm đúng mức của các ban ngành hữu trách, làm sao để thế hệ trẻ tiếp thu nó đúng lề lối cũng như cách thức thể hiện, tránh tình trạng có cô trong múa dẫn tế, chân vẫn xiến, mắt, mồm vẫn toe toét cười. Theo các nghệ nhân, ngay đến điệu múa cổ của ca trù cũng bị cải biên, "nâng cao", các cô mặc váy áo giống phường chèo và tay cầm quạt xoay tròn các hướng, kể cả xoay lưng vào bàn thờ thánh đang nghi ngút khói hương.

Trong một lần liên hoan ca trù với quy mô toàn quốc, có một "đào nương" mới chỉ học 40 buổi (với 3 bài, trong đó chỉ có một bài là ca trù), được trao "xiêm y" (giải đặc biệt: có khăn áo thật). Thế rồi, khi "vinh quy" trở về, sau khi được ngút ngàn lời khen, cô đã mở gần chục lớp để dạy học trò, các nghệ nhân hết sức kinh ngạc! Cụ Nguyễn Phú Đẹ giật mình: "Nó còn ngang nhiên về Tứ Kỳ để hát" (Tứ Kỳ - Hải Dương có phường nghề ca trù nổi tiếng).

Về việc trao xiêm y, sách Ca trù biên khảo của tác giả Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề cho biết: "Những ả đào trẻ tuổi học tập đã thành thục, khi bắt đầu ra hát phải có trầu cau trình với Quản giáp. Quản giáp sai chia cho khắp phường để báo cho biết cô đó đã thành nghề và ra hát. Huynh thứ nhận lễ trình, họp nhau lại sát hạch một buổi rồi mới công nhận. Được phường công nhận, các cô chọn ngày lành tháng tốt làm lễ cáo tổ, rồi mời một quan viên có danh vọng ở trong miền, nổi tiếng phong lưu hào phóng, đến nghe trống cho buổi hát đầu tiên. Hôm ấy mở tiệc linh đình để thiết đãi phường và ba con quen thuộc. Người đến dự tiệc đều có lễ mừng. Buổi hát đầu tiên ấy, giáo phường gọi là lễ mở xiêm áo"(5). Như vậy, lễ mở xiêm áo, có thể hiểu nôm na: Đã học đủ chương trình, thi, đỗ mới được đi hát.

Nghề nào cũng vậy, muốn tồn tại thì phải được truyền nghề, tức là có thầy và có trò. Một số nghệ nhân rất giỏi nhưng không có học trò bởi mặc cảm dư luận xã hội suốt thời gian quá dài. Thầy dạy phải truyền đạt toàn bộ kỹ thuật cơ bản cho học trò. Vì vậy, cũng như những nghề khác, việc truyền thụ cho thế hệ kế tiếp không thể nhìn vào số lượng mà điều cốt yếu phải là chất lượng của thầy và trò. Nhất là đối với ca trù, bởi ca trù hoàn toàn là nghệ thuật truyền khẩu nếu không phục hồi đúng nghĩa sẽ làm cho môn nghệ thuật độc đáo, đặc sắc này nếu có chăng thì chỉ còn là ca trù dị bản. Bởi lớp nghệ nhân ít ỏi còn lại sớm muộn cũng sẽ ra đi mà lớp kế cận đã tiếp thu được những gì? Nếu chỉ học có vẻn vẹn ... mà đã được làm thầy. Vậy học trò của họ sẽ hát ca trù như thế nào? Rồi ca trù sẽ ra sao?

Một khía cạnh khác có liên quan mật thiết tới nghệ thuật ca trù không thể không đề cập đến, đó là người thưởng thức.

Muốn thưởng thức ca trù thì phải học hoặc chí ít cũng phải được tiếp xúc trong các môi trường diễn xướng của nó! Họ phải được nghe cái thật, cái đúng, cái hay, lâu dần, thính giác tinh nhạy, thẩm định đúng, các cụ gọi là “quen tai”. Đó là chưa kể đến một yếu tố quan trọng là phải biết cảm thụ văn chương. Ca từ của ca trù thực chất là tác phẩm thơ - theo đúng nghĩa khắt khe và vinh quang của nó.

Nếu người thưởng thức biết nghe thì đào nương không thể hát sai lạc hoặc quấy quá. Quan viên mà lịch lãm thì tự khắc đào nương phải dụng công luyện tập.

Ngoài ra, so với các bộ môn nghệ thuật diễn xướng truyền thống khác thì ca trù vẫn còn quá nhiều thiệt thòi, đơn cử như các nghệ nhân ca trù chưa được quan tâm về vật chất, tinh thần. Họ chưa được trân trọng đúng mức so với tài năng của mình. Hơn nữa, ca trù chưa có những hội thảo lớn, chuyên sâu, cũng như chẳng có địa điểm riêng biệt để phát huy nghề nghiệp như các bộ môn chèo, tuồng. Trong các chương trình lớn, ca trù vẫn chưa được có mặt cùng với các bộ môn nghệ thuật truyền thống khác... Đó cũng là những yếu tố không thuận lợi cho sự phục hồi và phát triển của nghệ thuật ca trù.

Từ những thực trạng trên, thiết tưởng nên để vài dòng đề đạt mấy ý nhỏ, mong muốn gìn giữ và phát triển loại hình nghệ thuật ca hát đặc biệt này. Trước hết, đó là sự quan tâm bằng vật chất và tinh thần đối với các nghệ nhân cao niên, nhằm lưu giữ những tinh hoa nghệ thuật ca trù xưa còn sót lại. Họ mới là những người đủ tư cách nhận xét và hướng dẫn cho hậu sinh, đặng mai hậu có cái đối chiếu, phần nào đỡ sai lạc. Nếu sau này các nghệ nhân đó qui tiên hết thì chẳng còn ai nghe ai, khác nào "ba anh xẩm đi xem voi!" Chính vì những lý do trên, cần nhanh chóng tập hợp các nghệ nhân đang còn sống để thu thập và khôi phục những vốn nghề... đồng thời thu băng hình, băng tiếng nhằm lưu giữ bảo tồn lâu dài. Như vậy, việc thành lập một Trung tâm ca trù là cần thiết. Trung tâm này mới có điều kiện để những người tâm huyết với ca trù góp sức tài bảo tồn, phát triển ca trù. Muốn vậy, cần phải đào tạo lớp kế tục một cách nghiêm túc, bài bản do các nghệ nhân giỏi từng vùng đảm nhiệm. Thêm vào đó, nên tổ chức liên hoan định kỳ nhằm khuyến khích, động viên và phát hiện những đào nương có tài năng.

Nhà nước, trước hết là ngành văn hóa các cấp, cần có những kế hoạch, biện pháp thiết thực, hiệu quả nhằm giữ gìn, phát triển bộ môn nghệ thuật truyền thống độc đáo này, “một giống chim họa mi thơ ca Việt Nam” (Nguyễn Xuân Khoát).

Hy vọng những tinh hoa trong nghệ thuật hát truyền thống của đào nương ca trù xưa sẽ được tiếp nối, quan tâm hơn nữa để bảo tồn và phát triển như tâm nguyện của những người Việt Nam yêu ca trù cũng như của bạn bè quốc tế: “Ta có thể giữ được một thành phố cổ, vậy sao không thể giữ được một kho tàng quý như ca trù” (ý kiến của đại sứ Israen D.Matnai sau khi nghe ca trù tại Bích Câu đạo quán ngày 28-5-1995); “Tôi luôn hy vọng ca trù sẽ phổ biến hơn và luôn ở trong lòng người Việt” (TS âm nhạc Mỹ Jason Gibbs - Bản viết bằng tiếng Việt trong sổ lưu niệm CLB ca trù Hà Nội ngày 13-6-1995).

__________________
1. Nhiều tác giả, Ca trù nhìn từ nhiều phía, Nxb Văn hóa - Thông tin, 2003, tr.225.
2. Tư liệu cá nhân.
3. Xem thêm Văn Hạc, Hát ả đào ngày xưa là một thú chơi phong nhã không phải dành cho quan viên vô học, Báo Trung Bắc chủ nhật, 1942, số 129.
4. Cụ Nguyễn Phú Đẹ sinh năm 1923 tại thôn Cao La, xã Dân Chủ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương; Cụ Nguyễn Thị Chúc sinh năm 1930 tại thôn Ngãi Cầu, xã An Khánh, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây là 2 trong số 13 người mới được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam trao tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian vào ngày 11-1-2006 tại Hà Nội.
5. Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề, Ca trù biên khảo, Nxb TP.Hồ Chí Minh, In lại từ bản in năm 1962, tr.52-53.

Nguồn: hoidantochoc.org.vn   (11/05/06)

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.