Gốm Chu Đậu sau 400 năm thất truyền
Theo các cụ già của làng kể lại thì xưa kia ChuĐậu là vùng Trần triều Hải khấu (cảng nhà Trần). Theo chữ Hán, Chulà thuyền, Đậu là bến (bến thuyền đỗ). Nơi đây, thuyền bè ra vào tấp nập. Từ Chu Đậu, xuôi sông Thái Bình đến Nấu Khê, sang sông Kinh Thày ra cảng Vân Đồn - một cảng giao lưu với các nước của người Việt xưa. Cũng từ ChuĐậu xuôi sông Thái Bình sang sông Luộc đến Phố Hiến về Thăng Long - cũng là một thương cảng lớn từ thế kỷ XVII.
Từ lâu, người dân đồng bằng Bắc Bộ chỉ biết đến các làng gốm truyền thống Bát Tràng (Hà Nội), Hương Canh (Vĩnh Phúc), Thổ Hà, Phù Lãng (Hà Bắc)… còn gốm Chu Đậu, căn cứ vào những di vật có ghi rõ niên hiệu thì đã hơn 400 năm thất truyền. Đến khi ông Makoto Anabuki nguyên Bí thư Đại sứ quán Nhật Bản tại Hà Nội, năm 1980 trong chuyến công tác tại Istambul, thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ, khi đến thăm bảo tàng Topkapi Saray đã nhìn thấy chiếc bình hoa lam quý giá có ghi dòng chữ Hán: "Thái Hòa bát niên, Nam Sách châu, tượng nhân Bùi Thị hý bút" (nghĩa là: Năm Thái Hoà thứ tám (đời vua Lê Thánh Tông 1450), thợ gốm họ Bùi, người châu Nam Sách, vẽ chơi). Ông Makoto Anabuki đã viết thư cho Bí thư tỉnh ủy Hải Hưng là ông Ngô Duy Đông, nhờ các khảo cổ học chỉ cho chiếc bình gốm đó có xuất sứ từ làng gốm nào.
Sau một thời gian điền dã, khảo sát những dấu vết từ làng gốm cổ, từ năm 1986 đến 1997, các nhà khảo cổ học tỉnh Hải Dương đã xác định được phạm vi di tích sản xuất gốm rộng 4 vạn mét vuông tập trung nhất tại khu vực giáp đê sông Thái Bình thuộc địa bàn xã Thái Tân và Minh Tân huyện Nam Sách. Sau 7 lần khai quật, kết quả thu được thật bất ngờ đối với giới chuyên môn, còn đối với người dân địa phương thì họ đã khám phá được quá khứ lẫy lừng của tổ tiên mình: hơn 100 đáy lò dưới lòng đất, hơn một vạn hiện vật chủ yếu là bát, đĩa, hộp, lọ, bình… Biện pháp bắn cacbon đã xác định được những sản phẩm này có niên đại cách đây khoảng 500 đến 600 năm.
Theo các nhà nghiên cứu thì ChuĐậu xưa là một trung tâm gốm cao cấp, xuất hiện vào cuối thế kỷ XIV, cực thịnh vào thế kỷ XV - XVI và tàn lụi vào thế kỷ XVII do nhiều nguyên nhân. Nội chiến giữa nhà Lê và nhà Mạc, vùng Nam Sách trong đó có làng gốm Chu Đậu đã bị tàn phá, các nghệ nhân làng gốm phải phiêu bạt đến vùng khác và lập nên các làng nghề gốm mới. Giặc Minh xâm lược nước ta đã bắt đi nhiều nghệ nhân giỏi, một số khác di cư sang Nhật, Triều Tiên hoặc đi tìm đường làm ăn ở các làng gốm trong nước như nghệ nhân Vương Quốc Doanh đã dẫn cả một đoàn thợ lên làng gốm Bát Tràng, góp phần làm cho gốm Bát Tràng hưng thịnh như ngày nay… Một nguyên nhân nữa là trấn Thương Triệt xưa là vùng chiêm trũng gần sông, dễ bị ngập lụt, khó tránh khỏi ảnh hưởng đến việc sản xuất gốm.
Cũng theo các nhà nghiên cứu, gốm Chu Đậu là sự kế thừa của gốm Vạn yên (Kiếp Bạc) thế kỷ XIII, gốm Lý - Trần về lớp men ngọc và tạo khắc hoa văn chìm nổi, kiểu dáng thanh thoát. Bởi vậy gốm ChuĐậu thời đó đã đạt được 4 tiêu chuẩn: Mỏng như giấy, trong như ngọc, trắng như ngà, kêu như chuông. Một điều nữa là gốm Chu Đậu đã thể hiện được tâm hồn Việt qua hoa văn trang trí gắn với thiên nhiên và cuộc sống của cư dân vùng châu thổ sông Hồng như cảnh mục đồng chăn trâu, cô gái lái đò, người đội nón, mặc áo tứ thân, kết tóc đuôi sam, những mái nhà tranh ven sông, hoa sen dây, hoa cúc quấn, cỏ cây chim cá… Giữa các sản phẩm thường có chữ Phúc, Chính, Sĩ, Hoa, Trung, Kim, Ngọc, Tàm, Quỳ, Trù…, có thể là tên hiệu của các chủ lò. Phương pháp chế tạo cũng đạt trình độ cao, đó là chuốt, tạo dáng trên bàn xoay, ngắt sản phẩm thành nhiều công đoạn rồi lắp ghép lại và gia công. Xương gốm phần lớn có màu xám nhạt, cứng rắn, có loại trắng đục, trắng trong. Phương pháp trang trí rất đa dạng, phóng khoáng, trữ tình, hài hòa, tinh xảo như vẽ, khắc, họa, đắp… sản phẩm được phủ và vẽ chất liệu men trắng hoa lam, men ngọc, men màu tam thái hoặc rạn đục…
Người có công lớn với nghề gốm cổ truyền ChuĐậu là nghệ nhân Đặng Mậu Nghiệp tự là Huyền Thông, quê ở Hùng Thắng châu Nam Sách. Cũng tại bảo tàng Topkapi Saray ở thủ đô Istambul (Thổ Nhĩ Kỳ) còn lưu giữ chiếc lư hương gốm mầu xanh xám của ông làm từ năm Hưng Trị thứ 2 (1589), một trong hai cổ vật gốm quý giá nhất của Chu Đậu. Người làng Chu Đâu xưa đã tôn ông là ông tổ nghề gốm ChuĐậu.
Đầu năm 1994, tại vùng biển Cù Lao Chàm tỉnh Quảng Nam , ngư dân Duy Xuyên và Hội An đã phát hiện và lặn vớt được rất nhiều hiện vật gốm. Các nhà khảo cổ học Hội An, qua giám định khoa học, đã bất ngờ thấy rằng toàn bộ hiện vật gốm này đều có nguồn gốc từ làng gốm ChuĐậu, được sản xuất vào khảng thế kỷ XIV - XVI. Hơn 340 nghìn hiện vật gốm, trong đó khoảng trên 250 nghìn hiện vật còn lành, chứng tỏ từ xa xưa, gốm Chu Đậu đã được xuất cảng rộng rãi với số lượng lớn bằng con đường hàng hải. Như vậy ChuĐậu xưa là nơi hoạt động, sản xuất đồ gốm dân dụng và mỹ thuật phồn thình của cư dân Việt.
Đến nay, những sản phẩm gốm ChuĐậu đã được tìm thấy ở rất nhiều nơi trên thế giới. Từ Ai Cập đến Trung Cận Đông và toàn bộ các nước Đông Nam Á, đặc biệt là Nhật Bản là nước có sản phẩm gốm Chu Đậu nhiều nhất. Đến nay đã có 46 bảo tàng của các nước trên thế giới có trưng bày các hiện vật gốm ChuĐậu.
Giá trị của gốm ChuĐậu, sau khi được tìm thấy ở Cù Lao Chàm, đã làm sửng sốt trong giới học giả và mọi người. Tờ Việt Mercury số ra tháng 6/2000 đã đăng lời bà Dessa Goddard - Giám đốc ngành nghệ thuật Á Châu của nhà bán đấu giá Butterfields tại San Francisco: "Phát hiện này đang trả lại cho Việt Nam một chương của di sản nghệ thuật mà người ta từng nghĩ là đã hoàn toàn biến mất".
Người dân ở làng gốm Chu Đậu hầu như không ai hiểu, thậm chí nhiều người còn không hay biết ở làng có nghề gốm truyền thống nổi tiếng mà chỉ biết đến nghề dệt chiếu truyền thống có từ đầu thế kỷ XIX nếu không có cổ vật gốm Chu Đậu tại bảo tàng Topkapi Saray, thủ đô Istambul (Thổ Nhĩ Kỳ), hoặc hiện vật được trục vớt ở vùng biển Cù Lao Chàm và hiện vật khai quật được tại chính quê hương của họ. Sống trên mảnh đất đã sản sinh ra dòng gốm quý giá nhưng chẳng có người dân ChuĐậu nào ngày nay còn biết đến nghề này. Họ chỉ quẩn quanh với đồng ruộng và nghề dệt chiếu nên cuộc sống rất khó khăn.
Một sự kiện mang tính lịch sử đối với làng gốm cổ truyền ChuĐậu. Năm 2000, ông Nguyễn Hữu Thắng, giám đốc Công ty Sản xuất, Dịch vụ và Xuất nhập khẩu Hà Nội (HAPRO), người quê Nam Sách đã về Chu Đậu để thực hiện một dự án đầu tư sản xuất mặt hàng gốm xuất khẩu theo phương pháp phục chế gốm cổ và tạo mẫu sản phẩm mới theo phong cách gốm cổ Chu Đậu, nhằm khôi phục thương hiệu nổi tiếng của quê hương mình.
Được sự ủng hộ của chính quyền và nhân dân địa phương, tháng 10-2001, Xí nghiệp gốm Chu Đậu đã ra đời và bắt đầu đi vào hoạt động với tổng số vốn đầu tư giai đoạn một là 24 tỷ đồng. Cơ sở rộng 33.250m2 được xây dựng bên dòng sông cổ chảy qua làng. Ông Nguyễn Hữu Thắng, giám đốc Công ty cho biết: Giai đoạn đầu của xí nghiệp là mở cuộc săn lùng, sưu tầm những mẫu gốm cổ độc đáo, chiêu hiền đãi sĩ nhằm tập hợp những chuyên gia, nghệ nhân tài danh nhất trong các làng gốm cổ truyền đến xí nghiệp, cộng tác nghiên cứu để tìm ra từng loại gam màu của gốm cổ. Hơn 20 nghệ nhân từ Hà Nội, Bình Dương, Biên Hòa, Hải Dương… đã hợp tác với xí nghiệp, vừa nghiên cứu những nét đặc sắc của gốm cổ Chu Đậu, vừa thiết kế những mẫu sản phẩm mới để chuẩn bị đưa vào sản xuất. Gần 200 thanh niên, chủ yếu là người của làng Chu Đậu được tuyển chọn và đào tạo, truyền dạy kỹ thuật cơ bản và bí quyết trong từng công đoạn chế tác, nhằm tạo họ thành những tay thợ đầu đàn trong các lò gốm gia đình trong tương lai. Tiến tới, xí nghiệp mời các nghệ nhân đến dạy nghề cho con em địa phương trong những vùng lân cận.
Bắt đầu từ tháng 5 - 2003 Xí nghiệp gốm ChuĐậu đã xuất khẩu lô hàng đầu tiên với 8490 sản phẩm trị giá 20.000USD sang thị trường Tây Ban Nha. Thế là sau gần 400 năm, Chu Đậu lại có hàng xuất sang Tây Ban Nha, nơi nhập chuyến hàng cuối cùng của ChuĐậu vào thế kỷ XVII.
Theo ông Nguyễn Văn Lưu giám đốc xí nghiệp thì: "Từ đó đến nay, xí nghiệp đã xuất khẩu nhiều lô hàng đến nhiều nước trên thế giới và sản xuất theo đơn đặt hàng của khách hàng trong nước, gốm ChuĐậu đã thực sự hồi sinh và được đón nhận. Hơn 200 cán bộ và công nhân của xí nghiệp luôn có việc làm, thu nhập bình quân hàng tháng đạt 800 nghìn đồng mỗi người".
Để giới thiệu sản phẩm gốm Chu Đậu của xí nghiệp với khách hàng trong nước, nước ngoài và với khách du lịch, mới đây xí nghiệp đã khánh thành nhà trưng bày và giới thiệu sản phẩm rộng trên 1000m2. Đồng thời với việc phát triển thương mại, UBND tỉnh Hải Dương cũng đầu tư để thôn ChuĐậu có cơ hội phát triển du lịch làng nghề. Đường từ thành phố về làng và đường nội bộ trong làng được nâng cấp. Đền thờ ông tổ nghề gốm ChuĐậu là Đặng Mậu Nghiệp được tu sửa khang trang. Các di tích lò gốm cổ được gìn giữ, nhà trưng bày gốm ChuĐậu, nơi lưu giữ nhiều hiện vật gốm cổ cũng được sửa sang đón khách. Cuộc sống của một làng nghề truyền thống đã từng bước cải thiện.
Xí nghiệp gốm ChuĐậu đã làm thức dậy một làng nghề có một giấc ngủ dài 400 năm. Sản phẩm của xí nghiệp bắt đầu có tiếng trong nước và một số nước trên thế giới. Tuy nhiên đến làng Chu Đậu, cái không khí của một làng nghề truyền thống không có, bởi duy nhất chỉ có một Xí nghiệp gốm Chu Đậu nằm đơn độc ngoài bìa làng, trông giống như một liên doanh sản xuất công nghiệp.
Nhận thấy tầm quan trọng của việc khôi phục và phát triển một làng nghề gốm danh tiếng. Bộ Công nghiệp đồng ý và giao cho Viện Nghiên cứu Sành sứ Thủy tinh cùng Sở Công nghiệp Hải Dương phối hợp thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học nhằm khôi phục và phát triển làng gốm cổ Chu Đậu.
Như vậy, dự án khôi phục, phát triển sản xuất và du lịch làng nghề gốm cổ ChuĐậu sẽ làm sống lại một làng nghề sau nhiều năm bị thất truyền. Bộ mặt vùng quê thuần nông bên sông Thái Bình sẽ được thay đổi toàn diện. Hàng ngàn lao động sẽ có việc làm, đời sống của bà con làng nghề sẽ được cải thiện. Không khí làng nghề sẽ trở lại, thương hiệu gốm Chu Đậu Việt Nam sẽ hồi sinh, phát triển sau hơn 400 năm bị quên lãng.