Giữ vững an toàn sinh học từ chính sách pháp luật
Thận trọng trong tiếp cận
Khó có thể phủ nhận vai trò của công nghệ sinh học, cây trồng biến đổi gene như chìa khóa bảo đảm an ninh lương thực, góp phần tạo sự bền vững trước tác động của biến đổi khí hậu. Thế nhưng, việc đẩy mạnh phát triển cây trồng biến đổi gene ở nước ta còn nhiều trăn trở nhất là đối với an toàn sinh học.
Theo quan điểm của nhiều chuyên gia, cây trồng biến đổi gene mang tới những lợi ích thiết thực nhưng cũng có thể gây mất an toàn sinh học khi phát tán sang họ hoang dã và các loại cây trồng khác, sang côn trùng gây hại và có nguy cơ làm tăng khả năng đề kháng của sâu bệnh hoặc tăng khả năng gây độc cho sinh vật có ích. Các loại cây kháng sâu bọ có thể tiêu diệt những loài côn trùng hữu ích như ong, bướm và làm ảnh hưởng tới chuỗi thức ăn tự nhiên. Việc trồng cây biến đổi gene đại trà trên diện tích lớn sẽ làm mất đi bản chất đa dạng sinh học của vùng sinh thái.
Khẳng định sinh vật biến đổi gene và việc ứng dụng vào sản xuất không được phá vỡ tính tổng hòa về môi trường đã từng được nhấn mạnh tại Hội nghị Thượng đỉnh về môi trường toàn cầu. Điều đó đòi hỏi phải có những đánh giá tổng thể về mức độ an toàn của các sản phẩm biến đổi gene.
Mặc dù vậy, thực tế cũng cho thấy, không ít sinh vật biến đổi gene được nhập tràn lan vào nước ta bằng nhiều con đường khác nhau. Đã từng có loại cây trồng biến đổi gene được nhập bởi công ty nước ngoài thông qua trung gian và trực tiếp chuyển cho nông dân trồng một cách tự phát mà thiếu những đánh giá cụ thể. Điều đó đã cho thấy, công tác quản lý, giám sát sinh vật biến đổi gene ở nước ta còn thiếu hiệu quả và an toàn sinh học cũng chỉ được bảo đảm nếu có sự chung tay góp sức của cả cộng đồng.
Được biết, để góp phần giữ an toàn sinh học, Bộ NN và PTNT đang tích cực phối hợp với Bộ KH - CN và Bộ TN - MT khảo nghiệm, đánh giá mức độ an toàn của các sản phẩm giống cây trồng biến đổi gene trong điều kiện sản xuất ở Việt Nam.
Hoàn thiện chính sách pháp luật
Xác định an toàn sinh học là vấn đề nóng và quan trọng trong giai đoạn hiện nay, Luật Đa dạng sinh học (ĐDSH) 2008 đã dành một chương riêng với 4 điều quy định về nội dung này. Tuy nhiên, phải đến năm 2010, Nghị định 69 về an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gene mới được ban hành. Có thể nói việc đưa các quy định pháp luật về an toàn sinh học vào thực tiễn ở nước ta là quá muộn và còn nhiều thử thách.
Bên cạnh đó, nhiều thuật ngữ được quy định trong Luật ĐDSH 2008 cũng chưa thực sự chuẩn xác. Đơn cử như quy định về tổ chức, cá nhân “nghiên cứu tạo ra sinh vật biến đổi gene, mẫu vật di truyền của sinh vật biến đổi gene phải đăng ký với Bộ Khoa học Công nghệ”. Theo một số chuyên gia, chữ “hoạt động nghiên cứu” quá hẹp, không thể lúc nào cũng tạo ra sinh vật biến đổi gene, đôi khi chỉ có thể gián tiếp tạo ra mà thôi. Do đó cần phải thay thế bằng từ “nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ”.
Với mục tiêu bảo đảm an toàn sinh học, đối tượng phải công khai thông tin về mức độ rủi ro và các biện pháp rủi ro cũng được quy định tại Điều 65 Luật ĐDSH 2008. Theo đó, “tổ chức, cá nhân nghiên cứu, nhập khẩu, mua, bán, phóng thích sinh vật biến đổi gene hay mẫu vật di truyền của sinh vật biến đổi gene” phải thực hiện hoạt động này. Điều này hoàn toàn phù hợp đối với chủ sở hữu sinh vật biến đổi gene bởi họ biết rõ đặc điểm, tính chất của những sản phẩm này. Song, đối với “người nhập khẩu, mua, bán sinh vật biến đổi gene”, quy định này lại chưa hợp lý bởi họ chỉ sản xuất kinh doanh dựa trên danh mục đã được cho phép, cấp phép và nếu áp dụng quy định này tức là làm phát sinh thêm một khâu đánh giá rủi ro. Bên cạnh đó, quy định này cũng khó khả thi đối với đối tượng là người nông dân sử dụng sinh vật biến đổi gene bởi đa phần họ chỉ thực hiện nhiệm vụ nuôi trồng mà không hề biết mức độ rủi ro của sản phẩm này.
Mặc dù việc lập, thẩm định báo cáo đánh giá rủi ro do sinh vật biến đổi gene, mẫu vật di truyền của sinh vật biến đổi gene gây ra đối với ĐDSH đã được quy định tại Điều 66 Luật ĐDSH 2008 nhưng theo bà Lê Thanh Bình, nguyên Cục trưởng Cục Bảo tồn ĐDSH, Bộ TN - MT, quy định báo cáo chỉ bao gồm biện pháp đánh giá rủi ro, mức độ rủi ro và biện pháp quản lý rủi ro là chưa đầy đủ. Trong khi đó, nội dung quan trọng nhất là đối tượng chịu tác động của sinh vật biến đổi gene lại chưa được đề cập tới.
Mặt khác, dù vấn đề quản lý rủi ro cũng được cụ thể hóa trong Nghị định 69/2010/NĐ-CP về an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gene, mẫu vật di truyền và sản phẩm của sinh vật biến đổi gene nhưng nhiều ý kiến cho rằng, vẫn cần những hướng dẫn cụ thể về chế độ quản lý. Điều đó đòi hỏi phải hoàn thiện hơn nữa quy định pháp luật về nội dung quan trọng này nhằm góp phần bảo đảm an toàn sinh học.








