Giải pháp tăng sản lượng lúa ở ĐBSCL: Đầu tư mạnh vào khoa học công nghệ
Áp dụng “3 giảm, 3 tăng”
Một trong những chương trình có thể giúp tăng sản lượng, chất lượng lúa, đồng thời bền vững với môi trường là “3 giảm, 3 tăng”. Đây là chương trình đúng, thích hợp với từng vùng sinh thái. Trên cơ sở đó, bà con nông dân và cán bộ khuyến nông xem xét nên chọn giống lúa, kỹ thuật nào có tác dụng mạnh nhất để tập trung vào thực hiện, góp phần tăng năng suất, sản lượng, giảm giá thành, từ đó tăng thu nhập cho nông dân.
Thực tế đã xác định, giống lúa năng suất cao, chất lượng tốt, kháng sâu bệnh là điều kiện tiên quyết để việc thực hiện chương trình “3 giảm, 3 tăng” có kết quả tốt. Theo khuyến cáo của Viện Lúa ĐBSCL, các giống lúa hiện đang được dùng trong sản xuất đại trà có thể kháng rầy nâu và đạo ôn là OM 576, IR 64, VND 95-20, AS 996, OMCS 2000, IR 50404, OM 2517, OM 4498, ST3, OM 2395,... Những giống phải thận trọng khi dùng có Jasmine 95, OM 1490, OM 2514, OM3536. Giống ST lai tạo của tỉnh Sóc Trăng được trồng trên diện tích rộng, tỏ ra rất triển vọng về năng suất và chất lượng gạo, cũng như tính kháng sâu bệnh. Trong tình hình lương thực ngày càng khan hiếm, giá vật tư nông nghiệp “phi mã”, bà con nên trồng những giống cao sản, kháng sâu bệnh tốt như OM 576, IR 50404,...; hạn chế những giống lúa thơm đặc sản cao sản như Jasmine 85, OM 3536...
Hiện, phần lớn diện tích lúa ở ĐBSCL được làm 3 vụ/năm. Trước đây, ngành chức năng đã khuyến cáo nông dân không nên làm lúa vụ ba để cắt mầm rầy nâu và bệnh vàng lùn – lùn xoắn lá. Tuy nhiên, trong tình hình giá lương thực tăng cao, làm lúa vụ ba cũng là giải pháp để tăng lượng gạo xuất khẩu. Điều cần thiết nhất là bà con nên nghiêm túc thực hiện những biện pháp kỹ thuật có thể hạn chế tối đa sâu bệnh, như sử dụng giống kháng sâu bệnh, vệ sinh đồng ruộng, sạ lúa thưa theo hàng, hạn chế phân đạm, tăng phân lân, thu hoạch kịp thời.. Cần đặc biệt chú ý phòng trừ sâu bệnh ngay từ khâu giống, khi ngâm ủ giống cần xử lý thuốc sát trùng lưu dẫn có tác dụng trừ sâu đến 15-20 ngày sau sạ. Cần truy sát rầy nâu ngay lúc lúa còn non, vừa tốn ít thuốc, vừa ngăn chặn lây lan.
Đưa cơ giới hoá vào sản xuất
Phương pháp canh tác, thu hoạch thô sơ, lạc hậu là một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch lúa ở ĐBSCL tương đối cao (3,9-5%). Thời gian qua, các địa phương đã có nhiều chính sách khuyến khích nông dân mua máy gặt đập liên hợp (GĐLH) và máy sạ lúa theo hàng để cơ giới hoá sản xuất. Tuy nhiên, một trong những khó khăn của việc mở rộng diện tích dùng máy GĐLH là nông dân thiếu tiền mua máy. Bà con cũng không có đủ khả năng trang phẳng ruộng như ở Đồng bằng sông Hồng, nơi có truyền thống ngàn năm làm lúa nước. Đây là công việc kiến thiết cơ bản đồng ruộng, tạo điều kiện để sử dụng máy gieo hạt thuận lợi, và phát huy hiệu quả của tưới nước, bón phân, phòng trừ sâu bệnh...
Để thu hoạch 1ha, dùng máy GĐLH hết vài công lao động, trong khi dùng máy gặt xếp dải cần 16 công, gặt thủ công cần 26 công. Như vậy, dùng máy GĐLH giảm được chi phí thu hoạch 1 - 2 triệu đồng/ha so với thu hoạch bằng tay, lại kịp thời vụ.
Dùng máy GĐLH chỉ tổn thất 1-3%, tương đương 500.000 tấn thóc. Việc dùng máy sạ lúa theo hàng tính trên 1ha giảm 1 bao phân urê, giảm 1-3 lần phun thuốc trừ sâu do ít sâu bệnh; riêng hạt giống giảm 100-150kg so với sạ lan theo tập quán cũ, năng suất có thể tăng 300 – 400kg, thậm chí hàng tấn thóc, nhất là trong vụ hè thu.
Nếu làm tốt việc phổ cập máy GĐLH và gieo hạt bằng máy, ĐBSCL đỡ lãng phí, hay nói cách khác là có thể cung cấp thêm cả triệu tấn thóc/năm. Nhiều địa phương như Kiên Giang, An Giang, Cần Thơ... hỗ trợ nông dân được vay 30% tiền mua máy GĐLH, 70% Nhà nước hỗ trợ lãi suất. Nếu như Nhà nước cấp không hoàn lại 50-70% tiền mua máy thì diện tích lúa gặt bằng máy ở ĐBSCL sẽ tăng rất nhanh.
Vụ đông xuân năm nay, cả nước bội thu, người trồng lúa được dịp “nở mày nở mặt” vì thu lãi cao. Nhưng nếu nông dân được hỗ trợ nhiều hơn trong việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất để tăng sản lượng, chất lượng lúa gạo thì chắc chắn thành quả họ được hưởng sẽ còn lớn hơn.
Nguồn: Kinh tế nông thôn, 25/6/2008








