Giải pháp nào để doanh nghiệp đủ vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ
Ngày 16/5/2007, Bộ Tài Chính đã ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ của tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2007. Quỹ là tổ chức do doanh nghiệp thành lập để đầu tư cho hoạt động KH&CN nhằm nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, hợp lý hóa sản xuất của doanh nghiệp. Nguồn vốn của Quỹ được hình thành từ: (i) Lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp, mức trích cụ thể hàng năm theo quy định không quá 10%; (ii) Nguồn vốn đóng góp tự nguyện, không vì mục đích lợi nhuận của các tổ chức hợp pháp, cá nhân trong và ngoài nước; (iii) Nguồn vốn hợp pháp khác.
Quỹ có thể tổ chức dưới một trong hai hình thức: (i) Đơn vị độc lập có tư cách pháp nhân đầy đủ trực thuộc doanh nghiệp; hoặc (ii) Một bộ phận (không có tư cách pháp nhân riêng) thuộc doanh nghiệp.
Cũng theo Quyết định này, nguồn vốn của Quỹ dùng để thực hiện các hoạt động như: (i) Chi hoạt động quản lý chung của Quỹ (mức chi không vượt quá 15%); (ii) Cấp kinh phí để thực hiện các đề tài, dự án KH&CN của doanh nghiệp; (iii) Hỗ trợ phát triển KH&CN của doanh nghiệp: a) Trang bị cơ sở vật chất cho hoạt động KH&CN của doanh nghiệp; b) Mua bán quyền công nghệ, quyền sử dụng, quyền sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp… phục vụ cho hoạt động KH&CN của doanh nghiệp; c) Trả lương, chi thuê chuyên gia hoặc hợp đồng với tổ chức KH&CN để thực hiện các hoạt động KH&CN của doanh nghiệp (không bao gồm tiền lương quản lý chung của Quỹ); d) Chi cho đào tạo nhân lực KH&CN của doanh nghiệp; đ) Chi cho các hoạt động sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất.
Doanh nghiệp không được sử dụng nguồn vốn của Quỹ để đầu tư cho các hoạt động khác không gắn với việc phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp. Mỗi chu kỳ 05 năm, nếu số dư của Quỹ còn từ 50% trở lên trên tổng lợi nhuận đã trích trong 5 năm, thì doanh nghiệp phải nộp ngân sách nhà nước số thuế thu nhập doanh nghiệp trên số lợi nhuận trước thuế mà Nhà nước để lại cho doanh nghiệp tương ứng với số dư còn lại của Quỹ cộng phần Quỹ sử dụng không đúng mục đích và phần lãi phát sinh từ khoản lợi nhuận trước thuế đó. Như vậy, về mặt pháp lý, Nhà nước khuyến khích doanh nghiệp thành lập Quỹ phát triển KH&CN để đầu tư cho hoạt động KH&CN, nhằm nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, hợp lý hóa sản xuất của doanh nghiệp. Số tiền để hình thành Quỹ được trích từ lợi nhuận trước thuế với mức 10% lợi nhuận.
Ngày 15/11/2011, Bộ Tài Chính đã ban hành Thông tư số 15/2011/TT-BTC, hướng dẫn thành lập, tổ chức, hoạt động, quản lý và sử dụng Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp, tạo điều kiện tốt nhất để doanh nghiệp trích lập, sử dụng và quản lý Quỹ Phát triển KH&CN có hiệu quả.
Thực tế cho thấy, về giá trị tuyệt đối thì lợi nhuận trung bình/doanh nghiệp khu vực tư nhân rất thấp, chỉ có 258 triệu đồng trong năm 2008. Giả sử mỗi doanh nghiệp trích ra 10% lợi nhuận để lập Quỹ Phát triển KH&CN, thì quy mô trung bình của Quỹ cũng chỉ tầm 26 triệu đồng, một con số rất nhỏ nhoi để có thể làm được một cái gì “ra tấm ra món” cho khoa học, công nghệ. Do vậy, Quỹ này chỉ có ý nghĩa đối với các DNNN (quy mô trung bình quỹ tầm 3 tỷ đồng) và các doanh nghiệp FDI (tầm 1,8 tỷ đồng), còn với khu vực tư nhân đông đảo thì tác dụng của Quỹ có chăng chỉ đối với các công ty tư nhân qui mô lớn. Như vậy, có thể thấy các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tư nhân khó có thể trông cậy vào Quỹ Phát triển kH&CN với nguồn vốn nhỏ nhoi trích từ lợi nhuận trước thuế. Vấn đề cần bàn ở đây là ngoài Quỹ này ra, các DNNVV còn phải huy động tiền cho phát triển KH&CN của chính mình từ đâu.
Hiện nay đang tồn tại “4 kênh huy động chính thống” các doanh nghiệp có thể khai thác được. Đó là: Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia; các Quỹ Phát triển KH&CN của các tỉnh, thành phố trược thuộc trung ương, Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; và các Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia với chức năng tài trợ, cho vay để thực hiện nhiệm vụ KH&CN do tổ chức và cá nhân đề xuất. Đối tượng được nhận tài trợ toàn phần, một phần hoặc cho vay không lấy lãi, lãi suất thấp bao gồm các nghiên cứu cơ bản, các nhiệm vụ KH&CN đột xuất mới phát sinh có ý nghĩa quan trọng về khoa học và thực tiễn, các nhiệm vụ KH&CN có triển vọng nhưng nhiều rủi ro, các dự án sản xuất thử nghiệm.
Để được nhận tài trợ hoặc vay vốn, các tổ chức, cá nhân phải đáp ứng hai điều kiện: có đủ năng lực chuyên môn, điều kiện cơ sở vật chất-kỹ thuật phù hợp với loại nhiệm vụ KH&CN và khi vay vốn phải tuân theo các quy định pháp luật có liên quan. Sau khi có đơn xin tài trợ hoặc vay vốn của các tổ chức, cá nhân, việc xét chọn được tiến hành công khai, dân chủ và bình đẳng thông qua Hội đồng khoa học, công nghệ do Quỹ thành lập. Các chương trình, đề tài, dự án KH&CN trong kế hoạch của Nhà nước không nằm trong diện ưu đãi của Quỹ.
Sau khi Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia ra đời, hàng loạt Quỹ Phát triển KH&CN địa phương cũng nối tiếp nhau xuất hiện (Tp. Hồ Chí Minh, Bình Định, Hải Dương…). Đó là các tổ chức tài chính trực tuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do chủ tịch UBND quyết định thành lập. Các Quỹ này hoạt động theo nguyên tắc bảo tồn vốn, bù đắp chi phí và không vì mục đích lợi nhuận.
Các Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa được thành lập theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp DNNVV. Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa đang được hình thành theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp DNNVV (thay thế Nghị định 90). Quỹ này có mục đích tài trợ các chương trình trợ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh cho DNNVV, chú trọng hỗ trợ hoạt động đổi mới phát triển sản phẩm có tính cạnh tranh cao và thân thiện với môi trường; đầu tư, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiến tiến; phát triển công nghiệp hỗ trợ; nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp (Điều 7 Nghị định 56).
Ngoài ra, Nghị định 61/2010/NĐ-CP của Chính phủ về Chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn mới ban hành gần đây (4/6/2010) tạo thêm một kênh vốn cho KH&CN. Theo đó, doanh nghiệp có dự án nông nghiệp đặc biệt ưu đãi đầu tư, dự án nông nghiệp ưu đãi đầu tư, dự án nông nghiệp khuyến khích đầu tư được Quỹ Hỗ trợ phát triển kH&CN hỗ trợ 50% kinh phí thực hiện đề tài nghiên cứu tạo ra công nghệ mới do doanh nghiệp chủ trì thực hiện nhằm thực hiện dự án; hỗ trợ 30% tổng kinh phí đầu tư mới để thực hiện dự án sản xuất thử nghiệm được cấp có thẩm quyền phê duyệt (không tính trang thiết bị, nhà xưởng đã có vào tổng mức kinh phí). Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang hướng dẫn thi hành Nghị định này theo hướng: a) Đề tài, dự án có mức kinh phí đề nghị hỗ trợ từ 2 tỷ đồng trở lên do Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia xem xét tài trợ; b) Đề tài, dự án có mức kinh phí đề nghị hỗ trợ dưới 2 tỷ đồng do Quỹ Hỗ trợ phát triển KH&CN cấp tỉnh xem xét tài trợ.
Giải pháp nào để doanh nghiệp đủ vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ?
Đối với DNNVV
Mặc dù cho đến nay chưa có điều tra, tổng kết tình hình hoạt động của các Quỹ Phát triển KH&CN của doanh nghiệp, nhưng từ phân tích logic vấn đề có thể hiểu được các DNNVV không “mặn mà” cho lắm đối với Quỹ này. Ở đây có hai lý do: Thứ nhất, việc chi cho R&D cho dù không lấy tiền từ Quỹ này thì doanh nghiệp cũng vẫn được hạch toán vào giá thành sản phẩm; Thứ hai, nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp khu vực tư nhân không vì để trích tiền cho Quỹ mà khai báo đúng lợi nhuận. Do vậy nguồn vốn để đầu tư cho R&D của khu vực này không thể trông cậy vào Quỹ Phát triển kH&CN của doanh nghiệp, ít nhất, với cơ chế quỹ như hiện nay.
- Khuyến khích sự liên kết giữa doanh nghiệp với trường đại học, viện nghiên cứu trong hoạt động ứng dụng công nghệ mới. Nhà nước cần đóng vai trò “bà đỡ” cho mối liên kết này thông qua việc cấp kinh phí R&D từ Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia và các Quỹ Phát triển KH&CN địa phương.
- Khuyến khích doanh nghiệp áp dụng công nghệ mới bằng cơ chế hỗ trợ kiểu “chi 1 tặng 3” (tức là, chẳng hạn, nếu doanh nghiệp bỏ ra 1 đồng đầu tư cho R&D thì Nhà nước góp cho 3 đồng);
- Nhà nước nên có Chương trình xúc tiến công nghệ dành cho DNNVV, theo đó các doanh nghiệp tham gia sẽ hỗ trợ tài chính từ chính Chương trình:
- Các chính quyền địa phương thành lập các “Trung tâm đổi mới” (Innovation Centre) và các “Vườn ươm công nghệ cao” (High-tech Park/Incubator) như nhiều nước đã, đang làm và được đánh giá chung là có hiệu quả tốt. Các Trung tâm và Vườn ươm này sẽ trợ giúp các DNNVV tiếp cận được công nghệ mới khi khởi sự kinh doanh;
- Quỹ Phát triển KH&CN của DNNVV, như đã phân tích ở trên, nói chung là nhỏ. Do vậy, để tránh lãng phí, đề nghị không thành lập Ban quản lý Quỹ (khái niệm Quỹ ở đây nên hiểu đơn thuần là một đầu mục tài khoản/một bút toán, chứ không phải là một pháp nhân/tổ chức).
Giải pháp đối với doanh nghiệp lớn
Như đã nói ở phần trên, đối với các doanh nghiệp qui mô lớn, đặc biệt là các tổng công ty 90, 91, Quỹ Phát triển KH&CN của doanh nghiệp là cần thiết, vì 10% lợi nhuận trước thuế, trong nhiều trường hợp, có thể là con số hàng chục, thậm chí hàng trăm tỷ đồng. Tuy nhiên, để đầu tư thực sự cho R&D thì nguồn tiền từ Quỹ này cũng không đủ. Do vậy, theo tôi, đối với nhóm doanh nghiệp lớn cần có thêm các giải pháp sau:
- Khuyến khích các doanh nghiệp lớn thành lập viện R&D chuyên nghiên cứu phát triển công nghệ cho mình; khuyến khích sự liên kết giữa doanh nghiệp với trường đại học, viện nghiên cứu trong hoạt động ứng dụng công nghệ mới, như trường hợp đối với DNNVV;
- Hình thành và phát triển loại hình Quỹ Đầu tư mạo hiểm nhằm vào đối tượng là các doanh nghiệp lớn;
- Khuyến khích sự liên kết các doanh nghiệp lớn nội địa với các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu để qua đó phát triển hoạt động R&D./.