Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 05/10/2011 18:24 (GMT+7)

Giải pháp chung quy hoạch và xử lý chất thải làng nghề truyền thống đồng Bằng Bắc Bộ

Đặt vấn đề

Các làng nghề với những nghề thủ công truyền thống là một trong những nét đặc trưng của nông thôn đồng bằng Bắc bộ. Với nhiều sản phẩm phong phú đa dạng, hình thức tổ chức sản xuất linh hoạt, các làng nghề đã tạo ra một lượng lớn hàng hoá, giải quyết công ăn việc làm và mang lại thu nhập cho gia đình và xã hội. Bảo tồn và phát triển làng nghề cũng là một chủ trương "Công nghiệp hoá nông thôn". Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, trong những năm qua nhiều ngành nghề truyền thống đã được khôi phục và phát triển mạnh mẽ.

Tuy nhiên, sự phát triển làng nghề trong thời gian qua còn mang tinh tự phát, tùy tiện không có quy hoạch. Công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ người lao động còn thấp, không được đào tạo cơ bản, sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm.Thêm vào đó, tổ chức sản xuất kinh doanh còn khép kín trong quy mô nhỏ mang tính chất gia đình, thiếu sự hợp tác giữa các vùng, miền. Thiết bị và công cụ sản xuất, phần lớn là tự tạo hoặc cải tiến thủ công..., do tâm lý và thói quen sản xuất nhỏ của thợ thủ công là nông dân đã hạn chế trong đầu tư thiết bị và đổi mới công nghệ. Bên cạnh đó, công tác quy hoạch và xây dựng ở hầu hết các làng nghề còn nhiều bất cập. Các công trình kiến trúc đặc trưng cơ bản là nhà ở gia đình nông thôn kết hợp nhà xưởng sản xuất. Các công trình này gắn liền với nhau, đôi khi tách rời hoặc hợp khối trên diện tích từ 250-500m2 phục vụ cho nhu cầu vừa ở vừa sản xuất.Nhà xưởng thường mang tính chất tạm bợ, tranh tre nứa lá, mái lợp giấy dầu, tấm lợp phibrô xi măng hoặc tôn. Không gian ở gắn liền với khu vực sản xuất với cơ sở vật chất nghèo nàn, trang thiết bị máy móc đơn sơ, lạc hậu, không có thiết bị xử lý khói bụi, khí thải, nước thải và chất thải rắn nguy hại là những nguyên nhân cơ bản gây ô nhiễm môi trường cục bộ không những cho từng gia đình mà còn trong khu vực, ảnh hưởng tới sức khoẻ cộng đồng.

Tất cả các mặt hạn chế trên đã tác động không chỉ tới sự phát triển chung của làng nghề mà cỏn ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng môi trường. Ở hầu hết các làng đều không có hệ thống xử lý nước thải, xử lý khí ô nhiễm và kiểm soát chất thải rắn. Sản xuất quy mô nhỏ rải rác khắp làng tạo nên những nguồn thải nhỏ khỏ tập trung và gây tác hại tới môi trường toàn vùng.

Ðể khắc phục tình trạng trên, các tổ chức quốc tế và trong nước, các nhà khoa học đã có nhiều nghiên cứu và đề xuất các giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề, nhưng hiệu quả chưa cao. Các nghiên cứu chưa toàn diện, chưa tổng thể và chưa đồng bộ, chủ yếu tập trung điều tra khảo sát, đánh giá hiện trạng ô nhiễm làng nghề, đề xuất các giải pháp xử lý cục bộ. Các giải pháp về quy hoạch và kiến trúc chưa được quan tâm đúng mức trong quá trình xử lý ô nhiễm môi trường. Vì vậy, giải pháp quy hoạch và xử lý chất thải làng nghề thủ công ở đồng bằng Bắc bộ là cần thiết, đáp ứng nhu cầu và đòi hỏi của thực tiễn giúp cho các làng nghề phát triển theo hướng bền vững.

Giải pháp quy hoạch không gian làng nghề Đồng Bằng Bắc Bộ

Dựa trên yêu cầu duy trì và phát triển ngành nghề truyền thống, gắn bó mật thiết với làng nghề đã có, tạo hướng tiếp cận với tuyến hoạt động du lịch trong vùng, xúc tiến các cơ hội phát triển làng nghề trở thành một điểm du lịch. Vấn đề cần quan tâm khi dự kiến phát triển thành điểm tham quan du lịch làng nghề, cần hình thành không gian công cộng kết hợp trưng bày, bán sản phẩm tại vị trí dễ tiếp cận về giao thông, có các dịch vụ hỗ trợ như một điểm dừng chân trên tuyến du lịch.

Ðối với điểm làng nghề kết hợp với khu ở cần đảm bảo các nguyên tắc hình 1:

- Đường giao thông đảm bảo vận chuyển đi lại, và cứu hoả;

- Hệ thống hạ tầng kỹ thuật (điện, cấp nước, thoát nước) và VSMT phải được nâng cấp;

- Phát triển các khu đất cho công trình công cộng của thôn (nhà văn hoá, nhà trẻ, dịch vụ, sân chơi thể dục thể thao) đảm bảo không bị ảnh hưởng bởi quá trình sản xuất.

Điểm sản xuất làng nghề tách biệt với khu ở được tổ chức theo nguyên tắc hình 2:

- Có khoảng cách hợp lý từ nơi ở đến nơi sản xuất với thời gian đi lại nhanh nhất và đảm bảo khoàng cách ly với nơi ở;

- Vị trí cuối hướng gió;

- Có khả năng tiếp cận đường giao thông chính (đường liên xã, tỉnh lộ) và trung tâm xã để tiện lợi trong vận chuyển hàng hoá sản phẩm và nguyên vật liệu.

Giải pháp xử lý chất thải làng nghề đồng bằng bắc bộ

Xử lý nước thải làng nghề

Các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, thuộc da, tái chế giấy, tái chế nhựa, sản xuất sắt thép xây dựng là các làng nghề gây ô nhiễm môi trường nước nghiêm trọng nhất. Tuỳ thuộc vào đặc điểm làng nghề, do vậy mà thành phần và tính chất của nước thải khác nhau: yêu cầu về xử lý nước thải cũng khác nhau. Bởi vậy, không có một mô hình xử lý nước thải nào có thể áp dụng chung cho tất cả các làng nghề.

Đối với các làng nghề chế biến lương thực và thực phẩm, sản xuất da dày, nước thải sản xuất của các làng nghề này thường có hàm lượng cặn lơ lửng (SS), hàm lượng BOD, COD, chỉ số Coliform ở nước thải rất cao; thì lắng lọc, xử lý sinh học và khử trùng vẫn là những khâu cơ bản trong dây chuyền công nghệ xử lý nước thải làng nghề.
Đối với các làng sản xuất kim loại, chất ô nhiễm phổ biến trong nước thải là loại dầu khoáng, phốt pho..., nước thải từ xưởng mạ với nhiều kim loại nặng. Ðối với các làng nghề này thì lắng, lọc và dùng các phương pháp hoá, lý để loại bỏ thành phần kim loại trong nước thải vẫn là khâu cơ bản trong dây chuyền công nghệ xử lý nước thải làng nghề.

Xử lý khí thải làng nghề

Nhóm làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng như: sản xuất gạch, ngói đất nung; sản xuất vôi và nhóm ngành tái chế kim loại là gây ô nhiễm môi trường khí nghiêm trọng nhất.

Đối vớí các làng đúc nhôm, đồng, chì vấn đề quan trọng nhất là xử lý khói bụi và khí thải. Trong quá trình đúc nhôm, đồng, chì người ta thường sử dụng than để đốt phát sinh các loại khí thải độc hại như: CO, CO 2, SO x, NO x... và loại bụi nhôm, đồng, chì...

Hiện nay, hầu hết các cơ sở đúc chưa có thiết bị xử lý khói bụi và khí thải. Chúng tôi đề xuất 3 mô hình xử lý khí thải các làng nghề tái chế kim loại sau:

Mô hình 1: Quy hoạch các làng nghề theo mô hình sản xuất tập trung.

Ưu điểm:

- Quản lý khói bụi và khí thải theo mô hình sản xuất tập trung sẽ thuận lợi hơn nhiều so với mô hình phân tán: chỉ cần đầu tư lắp đặt thiết bị xử lý khói bụi và khí thải đối với các lò đốt này.

- Các cơ sở sản xuất dễ dàng phối hợp và hỗ trợ nhau trong quá trình sản xuất, vận chuyển nguyên vật liệu thuận lợi cho việc giao lưu và giới thiệu sản phẩm;

- Thuận lợi cho việc đầu tư, hiện đại hoá máy móc, thiết bị;

- Quy mô sản xuất được mở rộng, có thể sản xuất hàng loạt;

Nhược điểm: việc thuyết phục các hộ đang sản xuất tại gia đình như hiện nay là không đơn giản: vì họ không tận dụng hết được nguồn lực lao động trong gia đình; vấn đề đi lại, vận chuyển nguyên liệu, thiết bị không thuận tiện bằng sản xuất ngay tại gia đình; Khi chuyển từ mô hình sản xuất phân tán như hiện nay thành mô hình sản xuất tập trung, các hộ gia đình phải có thêm nguồn kinh phí, khoản đóng góp từ các hộ để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà xưởng, lò đốt... Trong khi kinh tế gia đình họ chưa đủ mạnh.

Mô hình 2: Quy hoạch các làng nghề theo mô hình sản xuất phân tán như hiện nay, đầu tư lắp đặt các trang thiết bị xử lý khói bụi và khí thải

Ưu điểm: Các hộ vẫn sản xuất tại gia đình, có thể tận dụng được nguồn lao động, thời gian nhàn rỗi của các thành viên gia đình trong sản xuất;

Nhược điểm:

- Hầu hết các hộ đều dùng lò đốt thủ công ngay trong khuôn viên gia đình; không đảm bảo điều kiện vệ sinh và an toàn trong quá trình sản xuất gây ô nhiễm môi trường không khí cho các hộ xung quanh;

- Công nghệ sản xuất lạc hậu, lao động thủ công nên năng suất lao động và chất lượng sản phẩm thấp, không đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của thị trường;

- Các trang thiểt bị xử lý khói bụi và khí thải thường là thiết bị đắt tiền; các gia đình không có khả năng tài chính để lắp ráp các thiết bị, nếu có lắp đặt cũng không xử lý triệt để mà ảnh hường tới các hộ gia đình xung quanh.

Mô hình 3: Quy hoạch các làng nghề theo mô hình sản xuất vừa phân tán, vừa tập trung.

Chuyển công đoạn đốt lò sang mô hình sản xuất tập trung; các công đoạn còn lại như: chuẩn bị nguyên vật liệu, các hộ có thể thực hiện tại gia đình. Như vậy, các hộ vẫn có thể tận dụng được nguồn lao động, thời gian nhàn rỗi để phục vụ sản xuất. Chỉ duy nhất khâu đốt lò, đúc đồng, nhôm, chì là phải chuyển ra khu sản xuất tập trung. Vấn đề đặt ra là quy hoạch và xây dựng lò đốt tập trung, đầu tư lắp đặt thiết bị xử lý khói bụi và khí thải.
Đây là phương án phù hợp với điều kiện hiện nay tại các làng nghề tại đồng bằng Bắc bộ.

Xử lý chất thải rắn (CTR) làng nghề

Đối với các làng nghề, ô nhiễm môi trường do chất thải rắn

là không đáng kể nếu so với ô nhiễm môi trường khí và môi trường nước do nước thải và khí thải làng nghề. Tuy nhiên, CTR làng nghề như tái chế nhựa cũng gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nếu không có giải pháp quản lý phù hợp.

- Chất thải sinh hoạt: cần có giải pháp xử lý cục bộ ngay tại các hộ gia đình.

Lượng CTR sinh hoạt phát sinh trung bình 0,4 kg/người/ngày; mỗi hộ gia đình trung bình mỗi ngày phát sinh khoảng 2kg/ngày/hộ. Trong thành phần CTR sinh hoạt, các loại chất thải có thể bán được, các hộ gia đình đã thu gom, tách riêng để bán cho các bà đồng nát, lượng CTR sinh hoạt loại hữu cơ như thức ăn thừa, lá cải, xu hào,... được các gia đinh sử dụng cho chăn nuôi; các loại chất thải hữu cơ khác như rơm, rạ có thể trộn thêm với bùn đào hố ù tại vườn, hoặc ngoài đồng ruộng để sản xuât phân hữu cơ trực tiếp bón ruộng.

- Chất thải sản xuất: Ðáng chú ý nhất là các loại chất thải rắn phát sinh từ quá trình sản xuất gồm: Các nguyên liệu, nhiên liệu... phục vụ sản xuất. Trong thành phần CTR được phân loại để tái sử dụng, tái chế hoặc mang xử lý. Đáng quan tâm là chất thải nguy hại, loại này cần thu gom và xử lý riêng, tuy nhiên hiện tại vẫn chưa được xử lý mà đổ lẫn vào rác sinh hoạt. Nhìn chung, hiện nay hầu hết các làng nghề đều chưa có bãi chôn lấp xử lý rác hợp vệ sinh, rác thải còn đổ bừa bãi hoặc đổ vào các địa điểm quy định, nhưng không hợp vệ sinh gây ô nhiễm môi trường. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng các bãi chôn lấp hợp vệ sinh để xử lý rác thải.

Kết Luận

Để bảo vệ môi trường và phát triển bền vững làng nghề truyền thống đồng bằng Bắc bộ cần phải thực hiện các giải pháp chung về quy hoạch không gian và xử lý chất thải làng nghề. Về quy hoạch không gian đã đề xuất 3 mô hình: Cải tạo nâng cấp làng nghề cũ theo mô hình sản xuất phân tán kết hợp với ở; xây dựng mô hình sản xuất tập trung cách ly với nơi ở; xây dựng mô hình nửa phân tán nửa tập trung kết hợp các giai đoạn phát triển nghề.

Về xử lý chất thải làng nghề đã đề xuất áp dụng giải pháp xử lý nước thải, khí thải và rác thải. Ðối với khí thải đã đề xuất 3 phương án đáp ứng với 3 mô hình quy hoạch không gian.

Các giải pháp đề xuất hoàn toàn phù hợp với Luật Bảo vệ Môi trường Việt Nam 2005, những quy định về xử lý chất thải làng nghề; phù hợp với Ðịnh hướng phát triển Kinh tế - xã hội làng nghề vùng đồng bằng Bắc bộ và Định hướng phát triển không gian làng nghề.

Tài liệu tham khảo
1. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ mã số MT-01/2006: “Nghiên cứu giải pháp quy hoạch và xử lý chất thải làng nghề thủ công, áp dụng thí điểm cho 1 làng nghé ở đồng bằng Bắc bộ" do trường Ðại học Kiến trúc Hà Nội thực hiện.
2. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước mã số KC 07.23: "Nghiên cứu cơ sở khoa học về quy hoạch và tổ chức không gian các loại hình cụm công nghiệp vừa và nhỏ ở nông thông theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá do Viện Quy hoạch đô thị nông thôn BXD thực hiện, 2003.
3. Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học "Khảo sát đánh giá thực trạng ô nhiễm môi trường một số làng nghề thuộc các tỉnh Hà Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên - Đề xuất các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm, cải thiện và quản lý Môi trường" do Viện Khoa học & Công nghệ Môi trường, Trường Ðại học Bách khoa Hà Nội, 12/2000.
4. Michael Digregorio, Ðặng Thị Sy, Ðặng Kim Chi, "Môi trường và phát triển tại các làng nghề thủ công".

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.