Duyên dáng tấm khăn rằn
Theo các nhà nghiên cứu thì khăn rằn có nguồn gốc từ người Khơ-me, trong quá trình cộng cư, đã ảnh hưởng đến các dân tộc khác. Chính sự tiện ích của nó mà ngày nay tấm khăn rằn phổ biến đến mọi người, không có sự phân biệt về dân tộc, giới tính khi sử dụng.
Khăn rằn thường có hai màu đen và trắng hoặc nâu và trắng. Hai màu này được kẻ thành hai làn ngang - dọc, cắt nhau theo góc 90 0, tạo thành ô vuông nhỏ, trải dài khắp mặt khăn. Và có lẽ vì thế nên người ta mới gọi là khăn rằn. Thường tấm khăn có chiều dài khoảng 1,2m, rộng chừng 40 - 50cm, không cầu kỳ, sặc sỡ mà rất bình dị, giản đơn. Khăn rằn thường gắn liền với những con người chân đất, lao động nơi ruộng đồng và trên sông nước mênh mông.
Trước khi có sự du nhập của các loại trang phục từ phương Tây thì chiếc khăn rằn không chỉ có những người lao động lam lũ mà cả những điền chủ, những người giàu có cũng sử dụng nó. Và không chỉ có phụ nữ mà nam giới cũng sử dụng loại khăn này. Khăn được vắt gọn trên đầu đối với nữ giới; hoặc cột ngang trán, chừa hai đuôi khăn nhô lên đầu, nút khăn nằm ở phía trước đối với nam. Nhiều khi khăn được quàng trên cổ, một đầu thả trước ngực, một đầu thả sau lưng. Cũng có khi hai đầu khăn được buông xuôi xuống phía trước.
Đối với những nông dân Nam Bộ thì chiếc khăn rằn và áo bà ba là hai bộ phận trang phục dường như không thể thiếu, dù là lúc đi làm đồng hay khi đi ăn cỗ cũng vậy. Các cụ bà ngồi trò chuyện, hỏi thăm nhau về công ăn việc làm, về ruộng vườn, sức khỏe, cuộng sống gia đình... miệng món mém nhai trầu, thỉnh thoảng lấy khăn quấn ở cổ quệt ngang miệng một cái. Các cụ ông thì quây quần bên bàn trà hoặc ngồi quanh bàn cờ tướng, cũng áo bà ba, cũng khăn rằn vắt vai. Những chàng trai khi làm việc đồng áng thì lấy khăn buộc ngang trán, lật ngửa hai đầu khăn lên trời, cũng là để ngăn mồ hôi đừng cho chảy xuống mặt. Đến khi mệt tựa lưng ngồi nghỉ, lúc này khăn được lột xuống, lau mồ hôi ở trán, ở mặt, ở cổ... Các cô gái trong khi cày cấy, hay gánh mạ trên đồng cũng thường quấn khăn ở cổ, nếu đổ mồ hôi thì lau luôn cho tiện.
Đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, các nữ du kích, dân quân, giao liên với chiếc khăn rằn, áo bà ba, nón tai bèo và xuồng ba lá đã bao phen làm khiếp vía quân thù, tạo nên một hình ảnh đẹp đẽ và đầy ấn tượng của đội quân tóc dài của thành đồng tổ quốc.
Ngày nay, do giao lưu với văn hóa phương Tây nên đã xuất hiện nhiều loại trang phục mới, nhiều loại khăn mới, bền và đẹp. Nhưng chiếc khăn rằn vẫn tồn tại, tạo thành nét đặc trưng của phụ nữ Nam Bộ. Và nó là một bản sắc văn hóa trong nền cảnh của đất rừng - sông nước phương Nam .
Nguồn: Dân tộc-Thời đại số 95/2006








