Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ bảy, 20/11/2004 23:28 (GMT+7)

Dược phẩm kháng vi-rút

Năm 1983, Luc Mông-ta-nhơ và Rô-be Gan-lơ phát hiện HIV, vi-rút suy giảm miễn dịch mắc phải ở người, đã gây bệnh AIDS hai năm trước đó. Khi ấy chưa có thuốc trị bệnh do vi-rút gây ra. Ngày nay, thuốcchủng ngừa và hàng trăm thuốc điều trị các bệnh do vi-rút, đã được nghiên cứu và sản xuất. Nhờ biết được bộ gen, các nhà vi-rút học mới hiểu được hoạt động của vi-rút và các giai đoạn mà vi-rút dễ bịtấn công nhất. Đến năm 2001, các nhà khoa học đã có thể giải mã được bộ gen của tất cả các vi-rút trong vài ngày. Phần lớn các dược phẩm kháng vi-rút hiện nay nhằm vào vi-rút hec-pec (herpés), HIV vàcác bệnh viêm gan siêu vi B và C. Các bệnh này hằng năm sát hại nhiều triệu người.

Cấu trúc của vi-rút rất đơn giản. Bộ gen của nó có thể thuộc dạng DNA hay RNA. Các vi-rút không có khả năng tự nó sinh sản, nhân đôi và phát triển. Chúng cần chui vào một tế bào, sử dụng tế bào đó đểphát triển. Các tế bào bị nhiễm vi-rút là xưởng sản xuất ra vi-rút và chúng cũng sẽ chết vì vi-rút.

Thuốc kháng vi-rút đầu tiên sản xuất bằng phương pháp cổ điển, được điều chỉnh vào năm 1960 để tấn công vi-rút hec-pet. Đến 1980, với sự phát triển của nghiên cứu bộ gen, các nhà khoa học mới so sánhđược bộ gen của các vi-rút tìm được cơ chế vi-rút gây nhiễm và phát triển trong cơ thể, phát hiện các prô-tê-in cần thiết cho vi-rút hoạt động. Nếu tiêu hủy các prô-tê-in này, vi-rút sẽ không còn khảnăng hoạt động. Một dược phẩm cũng cần có khả năng tác động đến nhiều gốc vi-rút (phổ tác động rộng). Để sản xuất dược phẩm kháng vi-rút, các nhà khoa học phân tích cấu trúc ba chiều của prô-tê-incần thiết cho hoạt động của vi-rút; từ đó, tìm ra một chất có khả năng ức chế enzim cần thiết cho sự sinh sản của vi-rút.

Dựa vào chiến lược đã được thống nhất trên con đường chống vi-rút, các nhà khoa học toàn cầu trong 3 thập kỷ qua, đã tập trung sức tìm các biện pháp có hiệu quả nhất, theo các hướng sau đây:

Thuốc chủng (vắc-xin) - thuốc chủng hữu hiệu nhất là thuốc tác động ở giai đoạn đầu mới nhiễm của bệnh, khi vi-rút chưa lan tỏa trong cơ thể. Vắc-xin kích thích hệ miễn dịch, để hủy các tác nhân gâybệnh khi mới xâm nhập cơ thể. Vắc-xin viêm gan siêu vi B được điều chế từ vi-rút có mặt trong huyết tương của bệnh nhân. Ngày nay, vắc-xin có thể xây dựng từ gen của một prô-tê-in đặc thù của siêu viB. Nhiều vắc-xin từ gen đang được nghiên cứu, như vắc-xin ngừa Den-gue, Hec-pet sinh dục hay bệnh sốt xuất huyết do vi-rút E-bô-la. Còn vắc-xin ngừa AIDS đang được tiến hành nghiên cứu chưa đi đếnkết quả cuối cùng.
Hai dược phẩm đầu tiên ức chế sự xâm nhập của vi-rút cúm vào tế bào là Amantidin và Rimantidin. Pléconaril hữu hiệu cho bệnh viêm cấp niêm mạc đường hô hấp, ức chế sự xâm nhập của rhinovirus. Thuốcnày cũng hữu hiệu đối với vi-rút đường ruột (enterovi-rút) gây tiêu chảy, viêm màng não, viêm kết mạc và viêm não.

Ức chế sự sinh sản - Một số dược phẩm có khả năng ức chế sự nhân đôi của vi-rút. Zidovudin (AZT) là dược phẩm đầu tiên đưa ra thị trường, làm chậm sự chuyển bệnh sang giai đoạn AIDS, làm chậm tiếntriển hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) và kéo dài thời gian sống trung bình của bệnh nhân ở giai đoạn AIDS.

Zidovudin có khả năng ức chế sự phát triển DNA của HIV và giảm hoạt động của men chuyển mã ngược. Tuy nhiên, AZT có nhiều tác dụng phụ nặng như gây thiếu máu, giảm bạch cầu, rối loạn tiêu hóa và thầnkinh. Lamivudin, được chỉ định để tấn công bệnh viêm gan siêu vi B và bệnh AIDS.

Ức chế sự khuếch tán vi-rút để ngăn chặn các virion (vi-rút con) mới hình thành thoát ra khỏi tế bào viêm nhiễm, cần phải ức chế phân tử neuraminidase. Dược phẩm ức chế sự khuếch tán của vi-rút vàtăng hoạt hệ miễn dịch gồm có:

- Interferon: ức chế sự tổng hợp prô-tê-in của vi-rút trong các tế bào bị viêm nhiễm.

- Alpha-Interfron là dược phẩm chỉ định cho các bệnh viêm gan siêu vi B và C. Trong trường hợp viêm gan siêu vi C, gamma-interferon được phối hợp với ribavarin.

Nhiều Interferon đang được nghiên cứu. Nhờ giải mã được bộ gen người, các nhà khoa học hy vọng sẽ tìm được các prô-tê-in kháng vi-rút và các prô-tê-in gia tăng tính miễn dịch. Các phát minh tương laisẽ là các dược phẩm mới chống vi-rút.

Nguồn: TS. Phạm Văn Tất (Quân đội nhân dân 24/2/2004)

Xem Thêm

Hà Giang: Hội thảo quản lý sử dụng, giải pháp nhân rộng 2 mô hình KHCN tiêu biểu
Ngày 04/4/2024, tại Hà Giang, Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Hà Giang phối hợp với Viện Dân số, Sức khỏe và Phát triển (PHAD) - Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học “Đánh giá công tác quản lý, sử dụng mô hình nhà tiêu sinh học (NTSH) không dùng nước; hệ thống cấp nước sạch và nước uống trực tiếp (mô hình nước uống học đường - NUHĐ).

Tin mới

Công đoàn VUSTA hướng về Điện Biên
Chiến thắng Điện Biên Phủ là một “Dấu mốc bằng vàng chói lọi" trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta. Mảnh đất cuối trời Tây Bắc – nơi ghi dấu ấn của chiến thắng lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu là nơi là người dân cả nước những ngày này luôn hướng về với niềm tự hào và tri ân sâu sắc.
Những trí thức đã góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Đó là thắng lợi của sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ. Làm nên thắng lợi đó, có những đóng góp tâm sức và trí tuệ quý báu của đội ngũ trí thức, của các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau.
Điện Biên Phủ: Điểm hẹn lịch sử
Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam phối hợp với Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước tổ chức khai mạc Triển lãm “Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử”, kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954 / 7-5-2024).