Dự thảo luận chứng khoa học về sử dụng tài nguyên đất với định cư đô thị và nông thôn
A. Đánh giá hiện trạng sử dụng đất với định cư con người hiện nay ở Việt Nam
I. Hiện trạng Định cư nông thôn
Năm 2000 chúng ta có 4.268.000 triệu ha đất lúa, giai đoạn 2001 – 2005 đã giảm 318.400 ha. Nhìn bề ngoài đất lúa giảm không nhiều, nhưng nếu so với số dân tăng bình quân hàng năm 1.300.000 người và chất lượng của 84.300 ha các loại đất khác (do khai hoang, phục hoá) chuyển sang để bù vào đất lúa nước – thì, chưa thể nói có thể đảm bảo an ninh lương thực trong những thập kỷ tới.
VN là quốc gia hiếm đất, người đông (bình quân đất đai tính theo đầu người là 0,4 ha - xếp thứ 170 trong số 217 nước trên thế giới), Với tỉ lệ phân bố truyền thống “tam sơn, tứ hải, nhất phân điền” nên đất trồng lúa nước lại càng hiếm. Để hình thành được hơn 4 triệu ha đất lúa như ngày nay, nhiều thế hệ nông dân VN đã phải trải qua hàng nghìn năm lao động cải tạo đẻ có được một hệ sinh thái ổn định phù hợp với cây lúa nước.
Quá trình chuyển đất lúa dùng cho các mục đích khác là “một đi không trở lại”. Hơn thế, với
70.000.000 thửa đất nông nghiệp hiện có (năm 1920 chỉ có khoảng 16.000.000 triệu thửa) đang nói lên sự manh mún của nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp. Sự chia cắt đó còn trầm trọng hơn do các khu công nghiệp, chế xuất, sân golf… hình thành loang lổ trên các cánh đồng đã từng được sản xuất theo phương thức thâm canh. Chưa có đánh giá cụ thể, nhưng chắc chắn nó đã đang và sẽ phá vỡ hệ thống thuỷ lợi ở những quy mô khác nhau, và gây ô nhiễm nặng tại các vùng trồng lúa. Có thể nói sự suy giảm đất lúa cả về diện tích lẫn chất lượng đất đã khiến VN trở thành nước sử dụng lượng hoá chất cao gấp 2 lần so với Thái Lan.Chất lượng đất nông nghiệp đang ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nông phẩm, đến toàn bộ nền kinh tế nông nghiệp.
Sản xuất gặp trở ngại làm cho môi trường sống trở nên bế tắc. Việc thu hồi 318.400 ha đất lúa nước cho các mục đích sử dụng khác (xây dựng đô thị, hạ tầng, khu công nghiệp, thuỷ điện… ) đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến cư trú nông thôn. Theo số liệu của Bộ nông nghiêp và phát triển nông thôn, từ 2001- 2005 có 630 nghìn hộ bị thu hồi đất, trong đó có 950 nghìn lao động nông nghiệp phải chuyển đổi sang nghề khác. Cũng vì thế mà có tới 2,5 triệu người bị ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống do bị thu hồi đất. Từ 2001 – 2005 mỗi năm đất nông nghiệp chuyển sang đất xây dựng khu công nghiệp là 73 nghìn ha/năm , chiếm 4% tổng diện tích đất trồng trọt. Như vậy, phần lớn nông dân mất đất sản xuất vẫn cư trú trong các làng mạc cũ mà ít được cải thiện . Các mô hình quần cư cân bằng sinh thái ấy đang bị phá vỡ do dân số tăng nhanh, hạ tầng kỹ thuật không theo kịp, do xây cất tự phát, do nông dân tự đưa các nghề gây độc hại môi trường vào nơi cư trú của mình… Diện tích bình quần đất ở nông thôn 2005 chỉ 59,1m2/người bao gồm cả nơi để nông cụ, kho nông sản, chuồng chăn nuôi gia súc là quá thấp.
Chính quyền đang đứng trước tình trạng nông dân một mặt khiếu kiện liên miên về ruộng đất ( Hải Dương, Hưng Yên là ví dụ ), mặt khác do làm nông không có lãi, không thể sống bằng nghề nông nên có nơi đã chối bỏ cả quyền sử dụng đất. Dấu hiệu này làm xấu đi truyền thống gắn bó máu thịt với đất đai của nông dân VN.
Những áp lực về sản xuất, cư trú và đời sống đã khiến họ rời bỏ ruộng đồng, làng mạc tạo lên một dòng di cư tự phát ào ạt tới các đô thị làm thuê, đi xuất khẩu lao động, làm phu khuân vác, khai khoáng… (chỉ từ 2001-2005 số lượng dân dịch chuyển ra ngoài tỉnh đã là 2,3 triệu người). Cuộc chuyển cư này tuy mang lại lợi ích trước mắt nhưng sẽ gây ra rất nhiều tổn thất lâu dài cho nông dân và nông thôn VN. Khuynh hướng bất chấp tất cả để mưu sinh đã làm hình ảnh người nông dân sa sút trong con mắt xã hội. . Dù họ đã tự vắt kiệt sức lực và xuất cư những đứa con ưu tú nhất đến các thành phố. Cấu trúc truyền thống các gia đình nông dân VN bị tổn thương và mất dần sự cố kết tích cực. Các cuộc tha hương mưu sinh thất bại cùng bệnh tật, lối sống hạ cấp ở đô thị… theo chân những ngườ trở về đe doạ xoá đi những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp nhất, mà phải trải hàng nghìn năm người Việt mới xây dựng được.
Tóm lại, mô hình định cư tích cực cho người nông dân trong hai thập kỷ vừa qua chưa hình thành .Chiếm 70% dân số, cư trú trên 94% lãnh thổ phức tạp, đã và sẽ là nguồn lực to lớn của công cuộc kiến thiết đất nước – nhưng nông dân VN chưa “ an cư” trong điều kiện công nghiệp và hiện đại.
II.Hiện trạng Định cư đô thị
Sau hơn 20 năm Đổi mới, tổng số đô thị cả nước từ 600 nay đã lên hơn 800. Quy hoạch sử dụng đất ở đô thị đến 2010 đã được Quốc Hội thông qua năm 2006 là 110.700ha. Tuy nhiên đến 2005 đất ở đô thị (không tính đất giao thông và các loại đất khác của đô thị) đã sử dụng hết gần 103.000ha. Chỉ còn khoảng 7.800ha và cũng đã giao cho các chủ dự án phát triển đô thị thực hiện. Tức là tính đến 2007 về cơ bản kế hoạch sử dụng đất ở đô thị đã hoàn thành sớm 3 năm. Trước đó (giai đoạn 2001 – 2005), đất ở tại các đô thị đã tăng thêm 30.721ha, bình quân đất đất ở đô thị là 12m2/người.
Kế hoạch 110.700ha đất ở đến 2010 có nguy cơ phá sản nặng nề còn ở chỗ, dân số đô thị đang tăng cao và khó kiềm chế. Số liệu trong nước ước tính dân số đô thị VN hiện là 27.000.000 (từ 1990-2005 tăng thêm 9.700.000). Số liệu của viện Konrad Adenaur tại VN đưa ra hiện dân số đô thị VN 33.200.000 và đến 2020 sẽ là 70.840.000, chiếm 70% chứ không phải là 46.000.000 (theo Bộ Xây dựng chiếm 40 %). Nếu tính toán của Konrad Adenaur là sát thực tế thì cuộc khủng hoảng đô thị ở VN khó tránh khỏi. Vì một loạt câu hỏi rất khó trả lời khi ấy:70.840.000 triệu dân các thành thị sẽ làm việc, cư trú ở đâu? Phải dành bao nhiêu đất cho đô thị? Mô hình nào cho định cư bền vững các đô thị Việt Nam ? Lấy đâu ra nguồn tài chính xây dựng các cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội (giao thông, điện, nước, chiếu sáng, trường học, bệnh viện…)? Bằng cách nào để dòng di dân không biến TP.HCM và Hà Nội thành các thành phố khổng lồ ngột ngạt vì ô nhiễm và thiếu các điều kiện an sinh xã hội?
Đó là những mối lo ngại có thật và phải phân tích kỹ nhiều nguyên nhân căn bản từ 3 nghịch lý trong quá trình đô thị hoá ở VN là :
1 –Đô thị hoá xảy ra trước công nghiệp hoá.Ở nước Anh trước khi phát triển các thành phố hiện đại đầu tiên thì đã có 80 năm công nghiệp hoá, nước Mỹ là 50 năm và các “con rồng” châu Á là 30 năm. Tuy không có những điểm khởi đầu rõ ràng, nhưng chính cuộc cách mạng công nghiệp đã chuyển hoá phương thức sản xuất nông nghiệp của cư dân nông thôn sang sản xuất công nghiệp dịch vụ ,kéo theo nó là sự hình thành những cư dân thành thị. Ở VN quá trình này ngược lại, sự gia tăng dân số đô thị chủ yếu là tăng cơ học. Làn sóng chuyển cư tới các đô thị ngày càng gia tăng (mỗi năm khoảng 1 triệu người tính đến 2005, TP.HCM hiện người nhập cư chiếm gần 1/3 dân số), sớm hơn tốc độ tăng trưởng công nghiệp, dịch vụ. Nhu cầu định cư tại đô thị vì thế tăng theo. Nhất là từ 01/7/2007 Luật cư trú có hiệu lực tạo điều kiện pháp lý cho xu hướng di dân này. Sự bùng nổ hệ thống khu đô thị mới đang diễn ra, một mặt vừa giảm áp lực chốn ở cho người dân, vừa đem lại lợi nhuận kếch xù cho giới kinh doanh bất động sản. Nhưng, các khu đô thị mới chỉ phát triển các công trình để ở mà còn thiếu đồng bộ, còn bỏ ngỏ các công trình dân sinh, hạ tầng xã hội … và nó giải thích cho hiện tượng chỉ tiêu đất ở của đô thị vì sao sớm hoàn thành kế hoạch sử dụng trong khi các loại đất khác không có sự phát triển tương ứng.
2 -Hạ tầng kỹ thuật đi sau.Nền kinh tế công nghiệp, dịch vụ có khả năng kế hoạch hoá tốt hơn kinh tế nông nghiệp, dựa vào các nguồn nhân lực sắn có để tiến hành quy hoạch, thiết kế đô thị. Theo đó, hạ tầng kỹ thuật, xã hội (giao thông, điện, nước,trường học, bệnh viện, siêu thị…) luôn đi trước. Chính vì thế mà những thành phố của các nước phát triển có thể chịu đựng tốt làn sóng nhập cư lao động. Còn các TP của Việt Nam thì không chịu đựng được, đất xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật của nhiều đô thị mới chỉ đạt khoảng 10-15% đất đô thị - trong khi yêu cầu tối thiểu phải là 30-35%. Diện tích đất giao thông của Hà Nội bình quân đầu người là 5,8m2, TP.HCM là 2,9m2, so với tiêu chuẩn thế giới là rất thấp (thường chiếm từ 20-25% diện tích thành phố).Diện tích đất dành cho các công trình cấp nước, cấp điện, thoát nước, vệ sinh môi trường v.v… đều thấp nhiều so với chuẩn thế giới. Hiệp Hội đô thị khuyến cáo rằng để theo kịp tốc độ tăng dân số đô thị, từ nay đến 2010 VN cần 8,9 tỷ USD cho 3 hạng mục: cấp nước, thoát nước, thu gom rác thải – và đến 2020 cần tới 13 tỷ USD cũng chỉ để làm ba việc này. Chỉ tính riêng Hà Nội cần 25 tỷ USD để phát triển giao thông đô thị đến 2020. Thành phố Hồ Chí Minh còn cần hơn thế nữa.
3 –Thôn tính đất vành đai.Năm 1996 chiến lược phát triển đô thị Việt Nam vạch kế hoạch cho tổng thể đất đô thị đến 2020 tăng thêm là 460.000ha, thì đến 2006 đã thực hiện trên 477.000ha vượt kế hoạch 13 năm. Lấy hình thể Hà Nội làm ví dụ, phía Tây Nam thành phố đã gần như ôm gọn thị xã Hà Đông phía Bắc cũng áp sát thủ phủ của tỉnh Bắc Ninh, phía đông bắc ôm gọn Phúc Yên… tức là Hà Nội đã không còn vùng vành đai xanh bao bọc nó. Sự bành trướng này đi ngược nguyên tắc giữ các vành đai đảm bảo phát triển bền vững, lấy đi những vùng đất màu mỡ cung cấp rau xanh, thực phẩm và các loại hoa, thủ tiêu những lá phổi xanh,không gian nghỉ dưỡng tối thiểu… “VN mỗi năm chuyển đổi khoảng 10.000ha đất nông nghiệp thành đất đô thị - hầu hết là các vùng ven đô. Điều thú vị là việc này dường như mâu thuẫn với các Chính sách quốc gia về chống hao hụt quỹ đất nông nghiệp cơ bản và đảm bảo an ninh lương thực”.( Báo cáo của Ngân hàng thế giới tháng 6/2006)
Nhìn tổng thể, chất lượng định cư đô thị của VN đã mắc phải 3 nhược điểm lớn là chất lượng con người (văn hoá, trình độ lao động), chất lượng xây dựng (vật chất) của thành phố đều yếu kém, và căn bệnh liên tục bành trướng đô thị “ bẩn” ra vành đai xanh ngoại vi, bất chấp tính bền vững.
III.Hiện trạng Định cư miền núi
3/4 diện tích lãnh thổ VN là đồi, núi với 1.169.000ha đất nương rẫy - trên đất sườn đồi, sườn núi chỉ làm được một vụ, cả năm chỉ thu khoảng 1,2 tấn/ha. Điều kiện canh tác nói chung của nông dân ở những vùng này rất khắc nghiệt. Lại thêm rừng đầu nguồn bị tàn phá làm lớp mầu ít ỏi trên địa hình đất dốc càng cằn cỗi. Đánh giá của Bộ Tài nguyên – Môi trường là “chưa có đầu tư để sử dụng đạt hiệu quả cao, việc sử dụng đất chưa trở thành động lực để xoá đói, giảm nghèo và tiến tới phát triển bền vững kinh tế - xã hội miền núi, vùng sâu, vùng xa”.
Một vấn đề rất đáng quan tâm là việc xây dựng những công trình thuỷ điện lớn và tác động của nó với định cư con người. Khoảng 550.000 người đã và đang chịu ảnh hưởng trực tiếp do phải di chuyển để nhường đất xây dựng các công trình thuỷ điện, mà hầu như họ rất khó phục hồi thu nhập và ổn định đời sống. Đồng bào các dân tộc ở những vùng này không chỉ bị mất đất sản xuất mà còn bị đe doạ do kinh tế bất ổn định vì tài nguyên rừng không còn.Các dự án thuỷ điện còn tiếp tục.Phải di chuyển cả cộng đồng, cũng có nghĩa kết cấu xã hội, truyền thống văn hoá bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tỷ lệ nông dân nghèo đói vùng miền núi Tây Bắc và Tây Nguyên còn rất trầm trọng. Tỷ lệ nghèo chung tính đến 2004 ở Tây Bắc là 58,6%, Tây Nguyên là 33,1%. Hơn nữa, các hồ chứa nước của các công trình thuỷ điện làm ngập chủ yếu các thung lũng, là những diện tích ruộng lúa nước vốn rất ít ỏi, quý hiếm ở vùng núi. Đằng sau các con số về quy mô công trình thuỷ điện như một cách khẳng định sự tăng trưởng về năng lượng, là sự xoá đi những thuận lợi về sản xuất nông,lâm nghiệp , xã hội ,môi trường chưa được tính toán kỹ càng để có giải pháp khắc phục hiệu quả.Cái giá phải trả cho 1 KW công suất thuỷ điện bao nhiêu là có thể chấp nhận được vẫn chưa có câu trả lời.(Thác Bà có công suất 108 MW nhưng làm ngập một diện tích đất canh tác lớn hơn Đa Nhim có công suất 160MW khá nhiều)
Không thể nêu hết những yếu tố gây nên sự bất ổn định cư trú của những vùng trung du và miền núi mênh mông. Nhưng các cuộc vượt đường xa qua những dãy núi hiểm trở tìm đất sống của đồng bào các dân tộc thiểu số là một biểu hiện rõ nhất.
Công cuộc phát triển kinh tế không thể tách rời an ninh quốc phòng. Chỉ có thể giữ vững và bảo vệ vùng lãnh thổ này với sự phát triển ổn định, định cư dài lâu của nhân dân các dân tộc vùng núi biên giới.
IV.Hiện trạng Định cư ven biển
Bờ biển và dải đất ven bờ nói chung của VN cũng như thế giới là nơi tập trung đông dân. Ở VN là 25 triệu (bằng 31% dân số cả nước), có khoảng 20 triệu cư dân sống bằng nghề đi biển, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối… tại 30/64 tỉnh, thành có biển.
Bộ phận nghèo khổ nhất tập trung vào các hộ ngư dân, với gia sản lớn nhất là thuyền đánh cá (rất nhiều hộ mắc nợ do tham gia chương trình đánh bắt xa bờ - gọi là nạn “nợ xa bờ”). Họ đứng ngoài chương trình xuất khẩu thuỷ sản và đánh bắt xa bờ (không có vốn, thiếu hiểu biết nuôi trồng thuỷ sản và hoặc chỉ làm thuê cho các chủ tàu đánh cá xa bờ). Đây là bộ phận dân cư chịu nhiều rủi ro mà các nạn nhân các trận bão biển những năm vừa qua là một điển hình. Do tính chất lao động nên phần tài sản trên bờ (nhà cửa, ruộng vườn…) rất ít ỏi, và cũng do hoàn cảnh lao động nên địa bàn cư trú của họ gần, sát biển – là những vùng đất chịu nhiều tai biến thiên nhiên nguy hiểm.
Một thực tế khá nghiêm trọng là việc phá rừng ngập mặn ven biển để nuôi tôm xuất khẩu đã tàn phá hầu hết các khu sinh thái ven biển trên toàn quốc . Kết quả sau 10 năm các ruộng nuôi tôm bị ô nhiễm làm tôm chết hàng loạt và chúng đang bị hoang hoá có nguy cơ sa mạc hoá do cát lấn,. Theo số liệu của Chương trình hành động chống sa mạc hoá, Việt Nam có khoảng 9.300.000 đ triệu ha đất liên quan tới sa mạc hoá (chiếm 28% tổng diện tích đất trên toàn quốc ), khoảng 2 triệu ha đất đang sử dụng đã bị thoái hoá nặng và hơn 2 triệu ha có nguy cơ thoái hoá cao.
Theo thống kê cua FAO và UNESCO, Việt Nam có khoảng 462 nghìn ha cát ven biển ( chiếm 1,4 diện ttích đất toàn quốc ) và 87,8 nghìn ha trong số này là các đụn cát, đồi cát lớn di động gay ra hệ quả trong 40 năm qua, mỗi năm đất canh tác bị lấn bởi cát di động từ 10 đến 20 ha.
Một thực tế nữa là các vùng đầm phá miền Trung bị ô nhiễm nghiêm trọng cũng do ngăn ô nuôi tôm làm biến dạng hệ sinh thái quý giá này.
Hiện nay nhiều vùng bờ biển nước ta đang xói lở với cường độ khác nhau, nhưng đều tăng cả quy mô lẫn tính chất nguy hiểm. Có 397 đoạn đã, đang bị xói lở với tổng chiều dài tới 920km (khoảng 25% chiều dài toàn bờ biển VN). Tốc độ xói lở tới từ 5 mét đến vài chục mét một năm. Điển hình là ở phía bắc cửa Thuận An (TT - Huế), bờ biển các tỉnh Hải Phòng, Nam Định, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Bình Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu, Cà Mau…Cùng với sự gia tăng của các cơn bão, mực nước biển dâng (thêm 0,33m năm 2005 và 0,45m vào năm 2007 – theo Bộ Tài nguyên - Môi trường) chắc chắn là những nguy cơ rất lớn đối với sự định cư của cư dân ven biển VN.
Nhìn tổng quát, điều kiện định cư của ngư dân và dân cư ven biểnViệt Nam là kém nhất so với các vùng cư dân khác. Do, hầu như họ rất ít được hưởng lợi từ các đầu tư công ích của Nhà nước như đối với cư dân trên đất liền (đường sá giao thông, chiếu sáng, các dịch vụ công…) khi họ lao động trên biển. Và nơi cư trú của các làng chài, khu dân cư duyên hải lại luôn bị đe doạ bởi thiên tai hàng năm.
Một chính sách định cư quán xuyến cả môi trường làm việc và cư trú đối với hàng chục triệu dân cư ven biển VN và trên các hải đảo chưa xuất hiện.
B. Kiến nghị về sử dụng đất với định cư con người ở Việt Nam
I. Quan diểm chung-Tổ chức lại định cưtrước hết là vì con người bản địa
Định cư là một quá trình sống của con người đã thích ứng với các điều kiện địa lý, khí hậu. Quá trình này đã trải qua hàng trăm , hàng nghìn năm và đến nay cùng với công cuộc phát triển kinh tế của đất nước đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định tới các điều kiện sống của con người VN ở mọi vùng địa lý. Tuy xu thế phát triển tăng trưởng kinh tế là không thể đảo ngược, nhưng không nên coi tốc độ tăng trưởng là mục tiêu duy nhất. Nếu tăng trưởng kinh tế mà chưa nâng cao được chất lượng sống của số đông cư dân tại chỗ thì sự tăng trưởng đó sẽ không còn đầy đủ ý nghĩa.
Quan điểm chung của Hội thảo:
- Đến nay kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất đai và các quy hoạch liên quan của nhiều Bộ ngành:Giao thông, xây dựng, nông nghiệp và phát triển nông thôn, du lịch…phục vụ cho các mục tiêu tăng trưởng vẫn còn thiếu các chỉ tiêu về ổn định và phát triển chất lượng sống (chất lượng định cư với đất đai) của con người từng địa phương cụ thể .Các chỉ tiêu này cần có mặt trong các kế hoạch, quy hoạch đó.
- Xây dựng một Chiến lược định cư tổng thể toàn lãnh thổ là việc làm cấp thiết hiện nay ở VN nhằm tính toán đầy đủ cả 3 yếu tố:Kinh tế-Xã hội-Môi trường. Lấy đó làm cơ sở hoạch định các kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất của từng Bộ, ngành và từng vùng lãnh thổ.
-Đưa nội dung vì con người ở từng vùng địa lý cụ thể làm tiêu chí đánh giá chất lượng kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất của từng Bộ, ngành và từng vùng lãnh thổ.
Do thế chúng tôi kiến nghị cụ thể cho từng vùng định cư như sau:
II. Định cư nông thôn
1-Về sử dụng đất nông nghiệp :
Quá trình chuyển đất nông nghiệp (đặc biệt là đất lúa nước) sang các mục đích khác (xây dựng, giao thông, công nghiệp…) là một đi không trở lại. Cho nên cần hạn chế tối đa quá trình chuyển đổi đó để đảm bảo an ninh lương thực cho không chỉ vài thập kỷ tới, mà các thế hệ người Việt trong những thiên niên kỷ sau này. Cụ thể
-Không được lấy đất lúa nước cho xây dựng đô thị, khu công nghiệp, thuỷ điện …
-Không được xây dựng sân golf trên đất nông nghiệp ( Hưng Yên, Bắc Ninh chưa triển khai xây dựng nên thu hồi giấy phép ).Dự án khu vui chơi giải trí và sân golf 500ha tại phía Bắc cầu Thanh trì của tập doàn Vincom cần phải thu hồi giấy phép vì ảnh hưởng quá lớn đến dân cư vủng này: di dời 3,5/4,0 vạn hộ gia đình đang sinh sống tại đây và sân golf đe doạ ô nhiễm sông Hồng.
2- Về các vùng ven đô :
Giữ lại các vành đai xanh đô thị là truyền thống định cư dân tộc khi xây dựng thành phố như một tiêu chí bảo tồn môi trường sống và bảo đảm an sinh xã hội cho nông dân vùng ven, đồng thời kiểm soát được an toàn thực phẩm và an ninh lương thực. Nên nghiên cứu mô hình Tây âu khi bảo tồn các vùng ngoại vi của đô thị (Agglomeration )lớn nhất mà ở đó các đô thị chiếm ưu thế đích thực, nhưng cũng bao gồm một phần quan trọng là những dân cư nông thôn. Như vậy khung cảnh sống của thuộc tính nông thôn gắn với trồng trọt vẫn được bảo lưu một cách hài hoà trong khuung cảnh hiện đại.
3- Về các vùng nông nghiệp nông thôn :
Nghiên cứu kinh nghiệm Trung Quốc, tiến trình công nghiệp hóa ở đây đã xuất phát từ quyền lợi của số đông dân cư nông thôn để liên kết chặt chẽ với điều kiện cụ thể của địa phương nhằm hiện đại hoá nông thôn và nông nghiệp. Các mô hình doanh nghiệp nông thôn đã ra đời nhanh chóng đảm bảo cho Trung Quốc phát triển tiến trình công nghiệp hoá đất nước trên mọi vùng lãnh thổ. Như vậy Trung Quốc tìm cách tách rời công nghiệp hoá ra khỏi đô thị hoá ở vùng nông thôn và kéo lại gần nhau hai thái cực “ công nghiệp hoá ” và “ nông thôn hoá “ - Mặc dù trong lịch sử kinh tế Tây âu và sự phổ quát của nó ở quy mô toàn thế giới, hai thái cực nêu trên tới thời điểm này vẫn được coi là tương phản, không thể gắn kết. Trung Quốc đã thành công công nghiệp hoá nông thôn với khẩu hiệu “ Ly nông bất ly hương “. Do vậy giữ được khung cảnh sống với thuộc tính nông thôn phi nông nghiệp,chứ không đô thị hoá nông thôn như chúng ta vẫn hiểu và đang áp dụng ở Việt Nam .
Về thực chất các mô hình cư trú truyền thống ở nông thôn liên kết chặt chẽ với khung cảnh sống mà ở đó, cơ bản là nông dân làm lụng trên những cánh đồng, trang trại, rừng … Xu hướng chuyển đổi sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ thời kỳ hiện đại hoá đã tách một phần lớn mô hình này ra khỏi chức năng kinh tế nông nghiệp mà nó vốn có, để tạo ra một tầng lớp dân cư nông thôn phi nông nghiệp. Đây là những cơ sở lý luận để điều tra về dân cư nông thôn Việt Nam và những biến động của nó cho đến 2020 nhằm nghiên cứu đề xuất tiêu chuẩn sử dụng đất ở, đất sản xuất …cũng như các mô hình cư trú thích ứng với nông thôn mới.
Tránh hiện tượng đô thị hoá nông thônđể tạo ra các đô thị nhỏ mật độ cao, lộn xộn hình thành xung quanh các vùng đô thị trung tâm ( zon métropolitaine ) hay liên đô thị ( conurbation ) có thể thành công ở Mỹ,do điều kiện đầu tư cao và công nghiệp hoá nông nghiệp toàn diện. Hiện tượng này dang có xu hương lan nhanh ở Việt Nam sẽ gây bất ổn cho các vùng định cư nông thôn.
Nghiên cứu mô hình doanh nghiệp gia đình hay xí nghiệp nông nghiêp ở nông thôn nhằm phát triển công nghiêp hoá từng bước ở đây, dần giảm bớt đáng kể con số của lực lượng sản xuất nông nghiệp, nhưng vẫn xây dựng được nền nông nghiệp thương phẩm. Đồng thời nghiên cứu các mô hình định cư nông thôn mới mang thuộc tính nông nghiệp cho dân cư nông nghiệp và phi nông nghiệp tại chỗ.
III. Định cư đô thị
- Điều kiện tiên quyết của hiện đại hoá bền vững là cần Hoạch định chính sách định cư quốc gia và chiến lược định cư địa phương trong thời kỳ công nghiệp hoá ( chuyển 70% lực lượng lao động chủ yếu là nông nghiệp tính đến 2005 sang 70% là lực lượng sản xuất công nghiệp và dịch vụ vào 2030 ).
- Cần nhận thức lại vấn đề đô thị hoá ở Việt Nam và các đặc thù của nó để đưa vào các chương trình nghiên cứu chính sách, chiến lược định cư quốc gia và địa phương (Đô thị, nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo …)làm cơ sở cho các qui hoạch ngành và địa phương…
- Xoá các quy hoạch “treo” và việc cấp giấy phép cho các dự án không đủ năng lực ,các dự án không tuân thủ quy hoạch rời rạc xé lẻ cơ thể thành phố và làm bộ mặt đô thị lộn xộn.
- Xây dựng cơ chế kiểm soát phát triển đô thị, tài chính đô thị ...( bằng cách nghiên cứu đô thị hoá nhằm đưa ra các quy chế quản lý cho đô thị. Xây dựng khung pháp lý phát triển đô thị bằng Bộ luật quy hoạch gồm hệ thống các quy phạm quy hoạch trước khi làm các quy hoạch liên quan đến xây dựng mới, bảo tồn cải tạo…) đây là nền gốc của quy hoạch để qui hoạch phục vụ sát kinh tế, xã hội,môi trường,gắn với các mô hình đô thị thích ứng điều kiện Việt Nam.
- Xoá sự chồng chéo và không thống nhất giữa 3 quy hoạch theo chỉ thị 09 của Thủ tướng chính phủ ký ngày 7/5/07 về tăng cường quản lý sử dụng đất của các quy hoạch và dự án đầu tư :
Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ( Bộ khoa học - dầu tư ).
Quy hoạch sử dụng đất ( Bộ tài nguyên – môi trường ).
Quy hoạch xây dựng ( Bộ xây dựng, Bộ giao thông vận tải, Tổng cục du lịch, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn. . . ).
Cụ thể là:
· Nghiên cứu hoạch định chính sách định cư quốc gia trên nền kinh tế, xã hội, văn hoá. Từ đó xây dựng chiến lược định cư cho mỗi địa phương, vùng miền để đưa ra các chỉ tiêu sử dụng đất cho các kế hoạch dài hạn và ngắn hạn. Đây cũng là bài toán của mỗi địa phương, mỗi ngành cho Quy hoạch sử dụng đất.
· Thống nhất các khái niệm, thuật ngữ sử dụng trong Quy hoạch sử dụng đất của tất cả các ngành và địa phương trong toàn quốc.
· Thống nhất quy trình Quy hoạch sử dụng đất toàn quốc bằng hai công cụ pháp lý công: Quyền sở hữu đất đai và Bản đồ đo đạc đất đai theo địa hình có thông tin về vật thể trên đất (không theo bản đồ “giải thửa” hiện nay nữa).
· Lấy Quy hoạch sử dụng đất là nền gốc để lập các quy hoạch chuyên ngành khác. Tất cả các quy hoạch chuyên ngành phải được so sánh và thẩm định theo Quy hoạch sử dụng đất toàn quốc và địa phương.
- Nghiên cứu các mô hình đô thị xanh, đô thị sinh thái, đô thị kinh tế bền vững ở Việt Nam để đưa vào thực tế đô thị hoá.
IV. Định cư miền núi
-Việc làm đầu tiên cần quan tâm là : Xoá đói giảm nghèo miền núi gắn với định cư miền núi với các mô hình định cư :
Định cư sinh thái rừng
Định cư sinh thái trang trại
Định cư sinh thái công nghiệp-nông thôn
Định cư du lịch làng nghề..
- Công tác tái định cư miền núi: các dự án tái định cư phải lấy con người bản địa làm trung tâm cùng với lợi ích quốc gia.
Ví dụ : Khu tái định cư thuỷ điện Đại Ninh - Bình Thuận xây hàng ngàn ngôi nhà xập xệ, tạm bợ, không có đường vào làng, vào nhà, không nghề nghiệp,trường ,trạm… cần được thẩm định trước khi cho dân vào ở.
- Định cư miền núi phải gắn với an ninh quốc phòng, coi từng người dân, từng gia đình, làng bản là một người lính biên phòng. Từ đó có chính sách giao đất, giao rừng, lãnh thổ biên giới cho các khu dân cư miền núi và định cư đồng bào tại các vùng sâu ,vùng xa với các chính sách hỗ trợ đặc biệt để đồng bào có thể an cư.
V. Định cư miền biển
- Cần nghiên cứu các mô hình định cư – sinh thái ven biển
Định cư sinh thái rừng ngập mặn
Định cư sinh thái vùng đầm phá và cửa biển
Định cư vùng du lịch ven biển
- Định cư đô thị biển cần gắn với kinh tế biển và chống thiên tai biển ( đô thi cảng biển, đô thị du lịch biển, đô thị dịch vụ biển …
- Xây dựng các chương trình trồng lại rừng ngập mặn ven biển và chống sa mạc hoá gắn với các vùng định cư truyền thống, dần dần chuyển đổi kinh tế biển phụ thuộc vào tự nhiên thành các kinh tế biển bền vững với công nghệ nuôi trồng thuỷ hải sản hiện đại và các chương trình kinh tế khác. Đây là nền tảng để nghiên cứu các mô hình định cư ven biển và hải đảo trong thời kỳ hiện đại hoá.








