Dự án xử lý ô nhiễm nước bằng thực vật thủy sinh của nhóm sinh viên “ngũ quỷ”
“Bốn phương trời ta về đây… chung tay”
Bạn bè, thầy cô trong khoa thường gọi họ bằng biệt danh thân mật nhóm “ngũ quỷ”. Mỗi người một phương: Phạm Thị Kim Thủy ở Quảng Nam- nhóm trưởng, Trần Nguyễn Vịnh ở Quảng Ngãi, Nguyễn Thị Khánh Vân và Phan Thị Cẩm Tú ở Thừa Thiên - Huế, còn Phi Mạnh Tiến lại tít tận Quảng Bình. Không hẹn nhưng cả năm người cùng thi và đỗ vào khóa 1 chuyên ngành Công nghệ môi trường (01MT) - Khoa Xây dựng công nghiệp và dân dụng của ĐHBK Đà Nẵng; cùng học một lớp, học giỏi, say mê nghiên cứu khoa học và đặc biệt thích nghịch nước.
Kim Thủy giải thích: “Em ưa nghịch nước từ nhỏ, hóa ra trò trẻ con đó cũng mang đến nhiều niềm vui” - ý thích trẻ con ấy theo Thủy lớn lên vào trường đại học, “run rủi” thế nào lại đỗ đúng vào chuyên ngành luôn dính dáng tới nước, nhưng toàn là... nước thải.
Cẩm Tú “có vẻ” người lớn hơn, chất giọng xứ Huế ngọt ngào: “Thật ra là như ri anh nè, ý tưởng tham gia cuộc thi đến sau vì mục đích ban đầu của nhóm em là tiến hành lấy mẫu nước các hồ về để phát huy khả năng phân tích phục vụ cho chuyên ngành đang học. Khi nhóm tiếp xúc với một số hộ dân ven các ao hồ thì họ “kêu” quá. Một chú ở ven bàu Thạc Gián-Vĩnh Trung (quận Thanh Khê) nói với em: “Bọn con học môi trường phải làm sao cho các hồ bớt hôi, chứ nhà chú ở ven hồ hôi quá, nhất là những hôm trời nắng, gió nồm””.
Còn Phi Mạnh Tiến thì lại nêu lên một thực trạng khá bao quát: nguồn nước có tầm quan trọng đặc biệt với sự sống của con người, ấy vậy nhưng không phải ai cũng có ý thức bảo vệ. Trước thực trạng các hồ chứa nước đang bị “bức tử”, là một sinh viên học về môi trường nước, trăn trở lắm anh ạ…”.
Thực tế đó đã thôi thúc nhóm bắt tay vào viết dự án. Ý tưởng của nhóm được sự hỗ trợ tối đa của Tiến sĩ công nghệ môi trường nước - thầy giáo Trần Văn Quang và thầy giáo - kỹ sư Hồ Văn Minh - Phòng thí nghiệm của khoa.
Công trình làm sạch nước kiểu... sinh viên
Đến khu trọ của “ngũ quỷ”, khoảng không gian của sân trước được nhóm chọn làm “phòng thí nghiệm”, lỉnh kỉnh những thùng xốp và các loài thực vật thủy sinh. Trong các thùng xốp là bèo lục bình, cỏ Vertiver, rau dừa nước và cây gai ấu.
Thủy giải thích: dùng các loài thực vật thủy sinh này để loại bỏ các chất dinh dưỡng và hữu cơ trong nước. Vì nguyên nhân khiến môi trường nước bị ô nhiễm là do các loại tảo chết; tảo sinh sôi nảy nở được là do nước bị phú dưỡng (hay còn gọi là hiện tượng nước nở hoa); chất phú dưỡng do các chất thải của con người, xác súc vật chết… gây nên; phương pháp sử dụng thực vật thực chất là đưa lượng chất dinh dưỡng dư thừa trong nước hồ chuyển vào sinh khối của thực vật thủy sinh (hiện tượng hấp thụ thức ăn).
Thủy nôm na: tức là chuyển từ một phương thức “khó” quản lý sang phương thức dễ quản lý hơn. Để có được kết quả, nhóm của Thủy đã thực hiện từng công đoạn, bước 1 đo chỉ tiêu mẫu nước, đặt nơi có đầy đủ điều kiện (t0, ánh sáng), tiếp theo chọn lọc thực vật… 10 ngày sau, lấy mẫu nước từ các thùng xốp đem đến phòng thí nghiệm của trường phân tích, đo nồng độ các chất dinh dưỡng (tranh thủ làm buổi trưa, buổi tối, thứ 7, chủ nhật). Ròng rã gần ba tháng, các chỉ số thu thập được rất khả quan. Màu của nước đã chuyển từ màu xanh đặc trưng của tảo thành màu trắng đục; mùi hôi được khử gần hết.
“Em không ngờ đề tài của nhóm lại đoạt giải nhất. Không những vậy, còn được đánh giá là có tính khả thi cao, tiết kiệm chi phí, thân thiện với môi trường, có thể nhân rộng. Bên cạnh đó, còn phục vụ cho một số mục đích khác như: làm thức ăn cho gia súc, làm nguyên liệu để chế biến phân vi sinh cũng như có thể nhân giống ngay tại hồ” - Kim Thủy hào hứng nói. Trong quá trình thực hiện đề án, nhóm cũng đã tìm hiểu biện pháp đang được sử dụng như: nạo vét, san lấp, thay nước… để xử lý nước hồ bị ô nhiễm.
Tuy nhiên, hạn chế là khi tiến hành xong, một số loài tảo lại xuất hiện, lại xâm nhập, gây nguy hại cho các vi sinh vật, động vật thủy sinh trong hồ, cộng với nước và rác thải làm xuất hiện mùi hôi. Trong khi đó, sử dụng các loài thủy sinh theo đề tài nghiên cứu của nhóm dễ áp dụng: rau dừa nước, cỏ gai ấu thả vào các ô cố định; cỏ Vertiver cố định vào các phao rồi thả chúng trên mặt nước vừa ít tốn kém lại tăng tính thẩm mỹ tại các hồ.
Theo TS Trần Văn Quang: giải pháp dùng các loài thực vật thủy sinh có tính khả thi cao, bảo vệ môi trường bền vững. Tuy nhiên, vấn đề băn khoăn hiện nay của nhóm là: một đề tài khoa học có tính ứng dụng cao đã được công nhận liệu có được triển khai hay bị cất vào “tủ”. Các thành viên trong nhóm thì rất muốn được phát triển đề tài lên cao hơn, nhưng lại không thể nghiên cứu theo kiểu… sinh viên.
Nguồn: nhandan.com.vn 17/12/2005