Đồng bằng Sông Cửu Long sự hòa thuận giữa con người với thiên nhiên
Toàn bộ nguồn nước lưu vực sông Mê kông 795 nghìn km 2đổ vào 39 ngàn km 2ĐBSCL (chiếm 5% diện tích lưu vực) với tổng lượng nước bình quân 500 tỉ m 3/năm, mùa lũ kéo dài từ tháng 7 đến tháng 11 với đỉnh lũ lớn nhất tại Tân Châu là 34 nghìn m 3/s làm ngập lụt từ 1,4 đến 1,9 triệu ha, mùa khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng 5 lưu lượng kiệt xuất hiện tháng 2 và tháng 3 tại Tân Châu là 3.000 m 3/s.Đồng bằng được hình thành bồi tụ bởi phù sa sông Mekong, bằng phẳng và thấp (dưới cốt 1) do ảnh hưởng lũ và mặn đã tạo nên một hình thái đất chua phèn 1,9 triệu ha, đất mặn 0,7 triệu ha và đất phù sa 0,96 triệu ha.
Bờ biển dài hơn 700km tạo thành hai cạnh của tam giác châu thổ với đặc trưng thủy triều biển đông bán nhật triều có biên độ 2,5m đến 3,5m, thủy triều biển tây nhật triều, có biên độ 0,8m đến 1,1m.
Hệ thống kênh rạch dẫn ngọt dẫn lũ, tiêu thoát nước và tạo thành một mạng lưới giao thông thủy thuận lợi hình thành dày đặc và căn bản đã định hình. Nguồn nước Sông Mê kông và động lực thủy triều như trái tim điều khiển toàn bộ sự sống mà hệ thống kênh rạch là mạch máu vận động tuần hoàn của tự nhiên nuôi sống ĐBSCL.
Hơn 300 năm mở cõi cho đến ngày nay đã hình thành một thế hệ cư dân luôn thích nghi với đất và nước theo từng bước phát triển, sớm quen với sản xuất hàng hóa nên rất cởi mở, năng động và nhạy bén nhất là nhạy bén cái mới với những tiến bộ công nghệ. Đó cũng là nét đặc sắc của nguồn nhân lực ở đây chỉ chấp nhận cái đúng, cái hiệu quả luôn tìm đến và biết cách thích nghi bền vững với môi trường thiên nhiên. Các thành quả có được ngày nay đều bắt nguồn từ những sáng tạo của người dân để rồi từ đó gợi mở cho các giải pháp khoa học kĩ thuật đi đến các kết quả ở tầm phổ biến, đặc biệt các nghiên cứu đều xuất phát từ các thực nghiệm, được thực tiễn kiểm chứng như là mô hình sống được thực hiện điều chỉnh cho những tính toán giải pháp, tao nên sức cộng hưởng lan tỏa đồng bộ với bước phát triển nhanh.
Từ buổi đầu lập nghiệp cha ông ta đã khởi đầu bằng việc đào kênh khơi nguồn kênh Vĩnh Tế, Tam Khê (Rạch giá –Long xuyên),Bảo Định, v.v để mở đất, cắm dân và mở đường đi lại. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thực dân Pháp ào ạt mở rộng mạng lưới kênh rạch ĐBSCL để phân bố dân cư, triệt để lợi dụng các điều kiện thuận lợi của tự nhiên, giao thông đi lại. Những giải pháp đó cũng chỉ có thể tạo được điều kiện để sản xuất một vụ lúa mùa và lúa mùa nổi, Cho đến năm 1975 ĐBSCL mới có chưa đến 200 ngàn ha lúa đông xuân, sản lượng lúa toàn vùng chỉ đạt 4 triệu tấn. Trước đó chính quyền cũ mới tiếp cận nghiên cứu bước đầu của Hà Lan, Mỹ và Nhật để khai thác vùng Đồng Tháp Mười (ĐTM) và vùng mặn với các giải pháp công trình dự tính hết sức phức tạp và tốn kém, bước đầu đã xây dựng một số cống ngăn mặn ở Long An nhưng không thành công, chuẩn bị xây dựng cống ngăn mặn Mỹ Thanh mà sau này chúng ta đã dừng lại.
Sau ngày thống nhất đất nước do chưa hiểu sâu sắc bản chất đất và nước và những đặc thù của ĐBSCL nên bước đầu có những ngộ nhận. Về thủy lợi cùng với việc tiến hành nạo vét một số kênh đã triển khai các trạm bơm điện có quy mô hàng ngàn ha, nông nghiệp thì với chương trình cơ giới khai hoang vùng đất phèn ở Đồng Tháp Mười, vùng Vĩnh Điều Tứ giác Long Xuyên. Cách tiếp cận đó đều thất bại, thực tiễn sống động của ĐBSCL đã chối bỏ. Bộ Thủy Lợi sớm nhận biết và tập trung chuyển mạnh công tác quy hoạch và nghiên cứu khoa học nắm bắt và hiểu thực tiễn đặc thù của vùng khí hậu nóng ẩm quanh năm, đất chua phèn nặng, phèn mặn và ngập lụt dài ngày và thủy triều vận động mạnh. Quy hoạch thủy lợi đã tiến một bước trong phân vùng thủy lợi để hiểu sâu sắc hơn đặc điểm đất và nước từng tiểu vùng, tập trung nạo vét kênh và nghiên cứu mở mới đan dày kênh để dẫn ngọt và tiêu phèn, tiêu thoát nước phá thế lúa nổi. Năm 1976-1978 bắt đầu lóe lên những mô hình sáng tạo của nông dân khoanh vùng làm hai vụ lúa đông xuân và hè thu với diện tích 1200 ha ở Phú Tân và Chợ Mới An Giang, rồi các mô hình ém phèn, tiêu phèn ở Thoại Sơn An Giang, bờ bao ngăn lũ sớm ở Tân Hưng, Tân Thạnh Long An để làm vụ hè thu, cùng với những tiến bộ về giống lúa của ngành nông nghiệp, những kết quả nghiên cứu bước đầu ở trạm nghiên cứu phèn của thủy lợi ở Tân Thạnh góp phần bật dậy những chủ trương đầu tư đúng đắn mà nhận thức Minh triết Hồ Chí Minh về thủy lợi là “làm cho đất với nước điều hòa với nhau” ngày càng sâu sắc hơn, nhất là khi năm 1999 triển khai thực hiện chương trình tuyến cụm dân cư vượt lũ, mở ra con đường sống chung với lũ, hòa thuận với thiên nhiên. Chúng ta càng nhận thức sâu sắc thêm, đi chệch hướng đó lá thất bại.
Con đường hòa thuận với thiên nhiên ở ĐBSCL, khi nhìn lại các sự kiện trong bước phát triển của ĐBSCL chúng ta ngày càng thấy sáng tỏ. Khi tiến công vào ĐTM với diện tích gần 375 ngàn ha đất chua phèn nặng mà nước chua phèn lưu cữu lũ về bao bọc không thể tiêu thoát được thành vùng đất chết, chỉ có năn lác và cây tràm gió. Dự án kênh Hồng Ngự nối từ sông Tiền xuyên qua trung tâm ĐTM đến sông Vàm Cỏ, ban đầu nhiều ý kiến lo ngại thậm chí phản bác của giới khoa học cả trong nước và cả nước ngoài mà trước đây đã có những nghiên cứu khởi đầu của Hà Lan và Mỹ vì cho rằng một tuyến kênh chọc vào đây sẽ làm chua phèn lan tỏa rộng ví như chọc vào túi ung thư và không chuyển được phù sa bùn cát vào để cải tạo đất. Công trình kênh Hồng Ngự đã chọn được thế năng tối ưu của sông Tiền đến sông Vàm Cỏ để đưa nước vào ĐTM, mục tiêu nước vào đẩy được túi nước phèn lưu cữu ở ĐTM ra sông Vàm Cỏ kết hợp với mùa lũ để từng bước đẩy phèn tiêu phèn, rồi ém phèn tạo nên một môi trường nước điều hòa cải tạo đất. Kiên định với các cơ sở khoa học đó nhưng để thận trọng hơn ngành thủy lợi chủ trương bước đầu đào nửa mặt cắt kênh để thăm dò hiệu quả, khi mới đào nối đến kênh Phước Xuyên (được nửa chặng đường) thì đã thấy hiệu quả không ngờ, kênh nối đến sông Vàm Cỏ mới nửa mặt cắt thiết kế và cùng với hệ thống kênh dọc ĐTM như Tân Thành, Tân Công Sính, Tân Công Chí, kênh 28, kênh 79 v.v. Một vùng đất mới được hồi sinh mạnh mẽ, nhân dân ở ĐTM gọi kênh Hồng Ngự với cái tên trìu mến là kênh Trung Ương. Cùng với sự kiện kênh Hồng Ngự quy hoạch thủy lợi đã đánh giá đúng khả năng diễn biến của lũ khi tiến hành bờ bao ngăn lũ sớm đầu mùa không có tác động lớn đến môi trường lũ toàn vùng đã làm cơ sở cho một cao trào bờ bao ngăn lũ sớm vốn bắt nguồn từ sáng tạo độc đáo của người nông dân ĐBSCL. Khoa học đã hiểu đất hiểu nước làm cho đất với nước điều hòa với nhau cộng hưởng với sức sáng tạo của người dân, biến ĐTM thành vùng lúa hai vụ đông xuân và hè thu thâm canh ổn định ngày càng bền vững.
Với vùng đất mặn gần một triệu ha nếu ngăn mặn nhưng không giải được vấn đề nước chua phèn tích tụ trong môi trường nước, nhất là với những trận mưa đầu mùa làm độ chua phèn trong đất lan tỏa thì cũng không thể phát triển được. Quy hoạch ngọt hóa Gò Công với giải pháp công trình cống ngăn mặn cửa van tự động thành công tạo đà nhanh chóng mở rộng vùng ngọt hóa Nam Măng Thít, Quản Lộ -Phụng Hiệp mở ra tiềm năng phát triển bán đảo Cà Mau. Do giải pháp công trình cửa van tự động đã tạo ra khả năng tuần hoàn vận động của môi trường nước như sự vận động và bài tiết của cơ thể sống ngăn mặn nhưng tức thời tiêu chua xổ phèn sinh ra trong quá trình sản xuất nhất là với những trận mưa đầu mùa tạo nên một môi trường nước ngọt ổn định, sự kiện cống Chà Và khi thiết kế không đảm bảo khẩu độ để giải quyết bài toán môi trường nước gây bức xúc trong dân đến mức đòi phá đập để tiêu nước chua phèn ứ đọng cho chúng ta nhận thưc rõ điều đó. Ở đây chúng ta nhận ra một điều là phản ứng của người đân ĐBSCL là thẳng thắn và trung thực, khoa học chỉ được chấp nhận khi nó đáp ứng được các vấn đề của thực tiễn và mang lại hiệu quả. Công trình cửa van tự động đã giải được bài toán nan giải của thực tiễn mà người dân ĐBSCL đòi hỏi và đem lại hiệu quả tăng vụ hàng triệu ha vùng mặn,nhưng khi đánh giá đóng góp khoa học của nó chỉ nhìn thấy ý nghĩa kết cấu công trình mà không thấy cái lớn lao hơn mà nó đạt tới, khi mà trước đó các giải pháp khác không giải được, đó là tạo ra sự tuần hoàn linh hoạt của môi trường nước luôn giữ được nguồn nước ngọt không nhiễm chua phèn. Một lần nữa Minh triết làm cho đất với nước điều hòa với nhau lại toả sáng. Với những đóng góp khoa học và hiệu quả sản xuất mà nó đem lại một cách bền vững công trình Cửa van tự động và Quy hoạch Thủy lợi ĐBSCL rất xứng đáng được trao giải thưởng Hồ Chí Minh.
Tây sông Hậu vốn là vùng ngọt lũ ngập nông nên trước đây phổ biến với cơ cấu một vụ lúa mùa nổi đã có các kênh dẫn nước lớn như Thốt Nốt, Ô Môn, Xà No… Quy hoạch thủy lợi đan dày kênh từ KH1 đến KH9 nối liền hai tỉnh Hậu Giang, Kiên Giang tăng cường khả năng dẫn ngọt và tiêu thoát nước phá vỡ môi trường nước chỉ thích nghi với lúa mùa nổi nên kênh mở đến đâu lập tức lúa hai vụ đông xuân và hè thu lấp kín đến đó mặc dù hệ thống nội đồng chưa có, cho ta thấy một môi trường nước phù hợp đã làm bật dậy tiềm năng của đất.
Tứ giác Long Xuyên có diện tích 489 nghìn ha, cái nôi của kinh nghiệm ém phèn làm hai vụ đông xuân hè thu tiềm năng được phát huy nhờ nạo vét và mở rộng các kênh dẫn ngọt đồng bộ với các cống ngăn mặn và tiêu thoát lũ biển Tây. Do đặc điểm biên độ thủy triều biển Tây yếu nên lũ tiêu thoát chậm nhất là tiểu vùng tứ giác Hà Tiên. Những năm cuối thập kỷ 90 thế kỷ trước, tập trung đào các kênh T5 (kênh Võ Văn Kiệt), kênh T3, T6 và nạo vét mở rộng các kênh Vĩnh Tế -Hà Giang, kênh Nông trường vừa dẫn ngọt và tiêu thoát lũ (có một thời dư luận ngoài ngành gọi đây là công trình phân lũ về biển Tây, thực chất đây là công trình tăng khả năng tiêu thoát lũ nội vùng tràn từ Campuchia về tứ giác Hà Tiên là chủ yếu thoát nhanh ra biển Tây). Đặc biệt đây là vùng khởi đầu cho chương trình của quy hoạch kiểm soát lũ ở ĐBSCL với việc nâng cao đường dọc kênh Vĩnh Tế, các cống và tràn kiểm soát lũ Tha La, Xuân Tô mang lại hiệu quả rõ rệt cho việc đảm bảo vững chắc vụ lúa hè thu của hai tỉnh An Giang và Kiên Giang, mà không làm ảnh hưởng đến tình hình nước lũ ở CPC.Năm 1999 thực hiện QĐ 99/TTg của Chính phủ xây dựng tuyến, cụm dân cư vượt lũ với các chính sách hỗ trợ người dân làm nhà đã tạo nên diện mạo mới sống chung với lũ với tầm bước ngoặt về an sinh xã hội ở ĐBSCL.Đây là bước phát triển mới nhận thức Minh Triết làm cho đất với nước điều hòa với nhau để tạo ra cuộc sống hòa thuận của con người với môi trường lũ.
Điểm lại các sự kiện quy hoạch và phát triển thủy lợi ở ĐBSCL trên đây cho thấy Thủy lợi đã đi đúng hướng; con người hòa thuận với thiên nhiên, biết lợi dụng để chủ động trong thích nghi trên cơ sở ngày càng nhận thức sâu sắc các nhân tố và đặc điểm tạo nên hình thái ĐBSCL mà mấu chốt là cải tạo môi trường nước để làm cho đất với nước điều hòa với nhau tạo nên bước phát triển đột biến và ngày càng bền vững.
Hệ thống thủy lợi ĐBSCL có đặc thù là một hệ thống mở có sự tương tác toàn vùng để tạo ra một môi trường nước tổng thể mà nguồn nước sông Mê Kông và động lực thủy triều như trái tim điều khiển toàn bộ sự sống của ĐBSCL mạng lưới kênh rạch là mạch máu.
Sự vận động đó chưa thấy mâu thuẫn và cạnh tranh giữa các vùng mà sự phân bố, vận động là sự tuần hoàn của tự nhiên, sản xuất liên tục tăng trưởng và phát triển, bền vững trước các mô hình thời tiết và thiên tai; lũ lớn năm 2000, 2002, 2011 và hạn hán mặn lấn sâu và lũ tháp mà người dân gọi là đói lũ như năm 2008.
Biến đổi khí hậu toàn cầu và nhất là tác động khai thác tài nguyên nước của các nước thượng nguồn Mê kông đang đặt ra những thách thức lớn và hai vấn đề dó có mối quan hệ hữu cơ ràng buộc lẫn nhau, nhưng xét cho cùng đấy là những biến đổi của thiên nhiên mà chúng ta tiếp tục phát triển thành quả và kinh nghiệm hơn ba mươi năm qua, khôn ngoan tìm những giải pháp thích nghi phù hợp với những biến động mới.Khí hậu nóng lên làm nước biển dâng mà các kịch bản của giới khoa học nêu lên cho chúng ta định hướng dự liệu hành động đúng để mảnh đất này, nơi đảm bảo an ninh lương thực bền vững cho cả nước mãi mãi trường tồn và phát triển. Chúng ta tìm đến những kinh nghiệm của Hà Lan bởi sự tương đồng nền đất thấp dưới mực nước biển. Nhưng thiên nhiên và đặc biệt là thủy thế, một mùa lũ dài 4-5 tháng với một nền văn hóa lúa nước, cùng bản sắc độc đáo của người dân ĐBSCL cho chúng ta những suy nghĩ cho lời giải phức tạp này. Thực tiễn cho thấy lời giải đất chua phèn độc đáo và sáng tạo, Việt Nam đã thành công khi ứng dụng khoa học kỳ diệu với mức đầu tư thấp nhất so với những dự án các nghiên cứu bước đầu của Hà Lan, Mỹ. Rồi chúng ta lại mời công ty NEDECO của Hà Lan xây dựng quy hoạch tổng thể ĐBSCL. Quy hoạch vừa xong thì tực tiễn phát triển của ĐBSCL có những mục tiêu đã vượt tầm quy hoạch, năm 1997 khi đến thăm công ty này ở Hà Lan tôi thông báo với họ sản lượng lúa ĐBSCL đã đạt trên 15 triệu tấn họ ngạc nhiên và rất khâm phục. Trên thực tế quy hoạch đó mang tính kiểm chứng cho thực tiễn phát triển của ĐBSCL Các chuyên gia tầm quốc tế như giáo sư Vrijling, công trình sư Pilarezyk sang giúp về thiết kế đê biển luôn nhắc chúng tôi rằng kinh nghiệm của Hà Lan chỉ để tham khảo, Việt Nam cần sáng tạo trên thực tiễn của mình, không nên máy móc dập khuôn, đó là lời khuyên chân tình không vụ lợi.
Vấn đề nước biển dâng ở ĐBSCL là công việc có độ dài cả trăm năm, thay vì các kịch bản là sản phẩm của các phần mềm máy tính định hướng cho chúng ta những suy nghĩ cần thiết để có bước đi phù hợp mà trước hết là các giải pháp mềm dẻo trên cơ sở hiểu biết thật cặn kẽ và sâu sắc các đặc điểm của ĐBSCL, tiến hành các quan trắc khoa học và đủ độ dài thời gian để kiểm chứng đánh giá khoa học, xúc tiến các giải pháp tạo nên sự hòa thuận giữa con người với thiên nhiên trong sự phát triển và biến đổi khí hậu toàn cầu. Công việc cần triển khai một cách bền bỉ là củng cố và phát triển rừng ngập mặn, thực hiện quy hoạch đê biển và đê cửa sông. Đối với đê biển và đê cửa sông thì mức độ ứng phó với nước biển dâng thực hiện từng bước với khung thời gian từng thập kỷ trên cơ sở số liệu quan trắc thực tế và cần thời gian cần thiết cho sự ổn định của nền đê. Đồng thời các giải pháp sinh học, nghiên cứu cơ cấu giống cây trồng và vật nuôi; các vấn đề an sinh cũng phải được đầu tư đồng bộ.
Các tác động khai thác tài nguyên nước trên dòng chính Mê kông là một thực tế và ngày càng diễn ra phức tạp, tất yếu, con đường tìm đến là sự đồng thuận hài hòa chia sẻ lợi ích hợp lý và thông tin minh bạch giữa các quốc gia để chúng ta sớm chủ động ứng phó.ĐBSCL đang phải đối mặt với hai thách thức tự nhiên nặng nề và phức tạp nêu trên, nhưng thật may mắn chúng ta lại có một mùa lũ kéo dài ngày, có tám tháng từ tháng 6 đến tháng 1 năm sau sông Mekong có lưu lượng lớn tháng1 cuối mùa lũ còn trên 8 ngàn m3/s, từ sống chung với lũ tiến đến phát triển bền vững trong môi trường lũ là thực tiễn đang hiển hiện ở ĐBSCL đó là cánh cửa cho chúng ta hóa giải những thách thức mới.
Năm 2011, ĐBSCL lại gặp trận lũ lớn, chỉ sau lũ năm 2000, là một trong 7 trận lũ lớn trong chuỗi quan trắc 80 năm qua. Trận lũ này ĐBSCL lần đầu tiên làm quen với khái niệm hộ đê do mở rộng diện tích lúa vụ thu đông nằm trọn trong mùa lũ chính vụ với diện tích lên đến 700 ngàn ha mà nét đặc sắc nhất là vùng lũ ngập sâu An Giang và Đồng Tháp có hơn 230 ngàn ha, thu hoạch có thể nói là trọn vẹn diện tích bị mất do vỡ đê bao chỉ 7 ngàn ha (3%). Đây là sự sáng tạo và thực nghiệm khoa học thành công của “các nhà khoa học hai lúa”, tỉnh An Giang đã khoanh 341 ô/572 ô vơi diện tích 132 ngàn ha / 235 ngàn ha lúa và dự kiến sẽ đưa diện tích lúa thu đông lên 198 ngàn ha vào năm 2015. Đồng Tháp cũng đã bao 497 ô /1748 ô với diện tích gần 99 ngàn ha /237 ngàn ha.
Đánh giá sự kiện này thế nào? Bộ NN&PTNT đã chính thức đưa vụ thu đông thành vụ sản xuất chính ở ĐBSCL nhưng vấn đề là cần có những phân tích và nghiên cứu khoa học đầy đủ hơn minh chứng mùa lũ là chìa khóa hóa giải để ĐBSCL thích nghi bền vững trước biến đổi khí hậu và diễn biến khai thác tài nguyên nước ở các nước thượng nguồn sông Mê kông.
Đối với vùng ngập nông và vùng mặn với cơ sở thủy lợi hiện có và đang được tăng cường thủy lợi nội đồng và đê biển đê cửa sông thì việc sản xuất hai vụ đông xuân và hè thu đã thâm canh ổn định, vấn đề mở rộng thêm vụ thu đông để tăng thêm vụ là có cơ sở, nhất là những thành tựu về giống đặc biệt là giống chịu mặn với môi trường nước mặn 5-7 phần nghìn của các nhà khoa học Viện Lúa ĐBSCL mở ra triển vọng. Tất nhiên các yếu tố lợi nhuận và thị trường còn có sự chi phối. Vấn đề định hình bền vững vùng nuôi trồng thủy sản ở vùng mặn là vấn đề lớn cả về tầm vóc và hiệu quả kinh tế. Nhưng cũng cần phải có những giải pháp đúng tầm mà mấu chốt vẫn là tạo nên một môi trường nước điều hòa với đất thích hợp với thủy sản, mà chế độ luân canh và luân phiên ngập ở vùng ngập sâu có thể cho ta những gợi mở.
Đối với vùng ngập sâu Đồng Tháp, Long An, An Giang, Kiên Giang quy hoạch kiểm soát lũ và xây dựng tuyến cụm dân cư vượt lũ và các tuyến giao thông quốc lộ, liên tỉnh, liên huyện trên thực tế đã hình thành hệ thống đê vượt lũ ở ĐBSCL được kiểm nghiệm qua thực tiễn lũ lớn các năm 2000, 2002, 2011. Nắm vững đặc điểm lũ ĐBSCL 85-90 % chảy theo dòng chính và chỉ 10-15 % lũ tràn vào đồng nên việc hình thành các ô vượt lũ chính vụ là có cơ sở từ thăm dò đến mở rộng quy mô như hiện nay có làm tăng mực nước nội đồng lên theo tính toán của Viện Quy hoạch Nam bộ khoảng 10cm, các địa phương đánh giá nội đồng nước rút chậm hơn nhưng chưa có tác động đến thời vụ. Hệ thống đê bao vượt lũ ĐBSCL có đặc thù là tháo lũ vào đồng sau thu hoạch theo một chu trình nhất định để cải tạo đất. Đã đến lúc các cơ quan chức năng về thủy lợi cần tổng kết thực tiễn, nâng cấp bổ sung quy hoạch kiểm soát lũ, tạo hành lang dẫn và thoát lũ phù hợp trong nội đồng. Việc nâng cấp và mở rộng các ô vượt lũ chính vụ do sự đồng thuận của nhân dân nhưng cần có sự hỗ trợ đầu tư thỏa đáng của nhà nước nhằm phát huy sức dân hiệu quả hơn.
Từ sống chung với lũ tiến đến phát triển bền vững trong môi trường lũ ở ĐBSCL là một quá trình thích nghi chủ động, mềm dẻo với tự nhiên. Các công trình thủy lợi, các công trình kiểm soát lũ, hệ thống đường giao thông, các tuyến, cụm dân cư vượt lũ, hệ thống bờ bao ngăn lũ sớm và đê bao vượt lũ là một tổ hợp công trình tạo nên sự thích nghi bền vững, hòa thuận với thiên nhiên. Cho đến nay, chúng ta chưa có một sự tổng kết và đánh giá khoa học một cách đồng bộ, bài bản về những thành quả đó.
Khuynh hướng các công trình tác động đến các sông lớn, các cửa sông lớn và can thiệp vào sự vận hành tự nhiên của các trục kênh dẫn nước lớn trong quy hoạch thủy lợi của bộ NN&PTNT cần phải được xem xét kỹ. Công trình ngăn sông Ba Lai mở đầu cho sự can thiệp vào các sông lớn nên cần có đánh giá hiệu quả và các vấn đề phát sinh hậu Ba Lai, rồi dự án sông Cái Lớn, sông Cái Bé đang xúc tiến chuẩn bị đầu tư cần có sự nghiên cứu đánh giá thận trọng hơn vì sao chúng ta đã dừng hẳn công trình Mỹ Thanh lại xúc tiến một công trình tương tự? Trong khi đó, bài toán kinh tế, môi trường nuôi trồng thủy sản, thích ứng với các biến động trong tương lai mà xu hướng muốn trữ nước ở cuối nguồn là nơi tích tụ nước chua phèn thải xuống chưa có lời giải thỏa đáng. Đồng thời cũng cần xem lại hiệu quả hay ít nhất là bước đi của các cống đầu sông Hậu ở An Giang đã thực sự bức xúc chưa? Nên chăng dành sự ưu tiên cao hơn cho việc bảo vệ bền vững hệ thống đê bao vượt lũ, với các vấn đề khác còn có độ dài thời gian để xem xét.
Vấn đề chống ngập các đô thị và an sinh bền vững vùng nông thôn (bao gồm các khu dân cư vượt lũ, các cơ sở kết cấu hạ tầng, giáo dục y tế v.v ) tuy đã có những thành công nhưng đó là vấn đề phức tạp và không có điểm dừng. Đây là yếu tố có tính quyết định để phát triển bền vững trong môi trường lũ cần được kiên định đồng bộ trong quá trình phát triển ĐBSCL, đó cũng là vấn đề cốt lõi trong việc xây dựng nông thôn mới ở ĐBSCL.
Quá trình phát triển ĐBSCL gần bốn thập kỷ qua thể hiện tầm nhìn phát triển bền vững mà mấu chốt là nối lũ với mùa kiệt tạo ra một môi trường nước để hóa giải một vùng đất chua phèn và phèn mặn tưởng chừng bó tay trở thành một vùng sản xuất lúa hàng hóa và đảm bảo an ninh lương thực cho cả nước. Đồng thời, lũ còn mang đến một mùa thu hoạch thủy sản lớn gắn bó như là bản sắc đời sống ở ĐBSCL, khôn khéo kiểm soát lũ, rồi tiến đến phát triển bền vững trong môi trường lũ. Cùng với những thành tựu về sinh học đã tạo nên sự thích nghi bền vững hòa thuận giữa con người với thiên nhiên. Sự năng động và sáng tạo của người dân ĐBSCL với nhận biết sâu sắc đặc thù thiên nhiên của xứ này để có những sáng tạo gợi mở vô giá tạo tiền đề cho khoa học phát triển đúng đắn, đặc biệt là các giá trị thực nghiệm tiên phong của các nhà khoa học “ hai lúa “.
Ứng phó với biến đổi khí hậu và biến động của việc khai thác tài nguyên nước của các quốc gia thượng nguồn Mê kông là tất yếu của quá trình phát triển ĐBSCL phải chủ động thích nghi khôn khéo, mềm dẻo, bền vững bằng các biện pháp công trình và phi công trình tiếp tục tạo nên sự hòa thuận giữa con người với thiên nhiên và phải được đầu tư đúng tầm không những cho mảnh đất này mà còn đảm bảo cho sự bình yên và bền vững của đất nước.
Để kết lại bài viết, xin trích lời Hồ Chí Minh nói về nước “Việt Nam ta có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là đất nước, có đất và có nước thì mới thành Tổ quốc. Có đất lại có nước thì dân giàu nước mạnh.Nước cũng có thể làm lợi nhưng cũng có thể làm hại, nhiều nước quá thì úng lụt, ít nước quá thì hạn hán.Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho đất với nước điều hòa với nhau, để nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Minh Triết đó luôn dẫn dắt hành động chúng ta theo từng bước phát triển bền vững ĐBSCL luôn tạo nên sự hòa thuận giữa con người với thiên nhiên.
* Nguyên vụ trưởng vụ kế hoạch Bộ Thủy lợiNguyên cục trưởng cục Đê điều-PCLB Bộ NN&PTNT