Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 07/01/2008 15:11 (GMT+7)

Đổi mới giáo dục đại học: ngổn ngang trăm mối

Đánh giá của các nhà khoa học Hoa Kỳ: không sai nhưng cũng không mới!

Dù không được tham dự Hội thảo “Các cơ hội nâng cao chất lượng GDĐHVN” diễn ra trong 2 ngày 2-3/8/2007 để trực tiếp nghe các báo cáo của các nhà khoa học Mỹ nhưng chỉ cần vào trang Web của VEF (http://home.vef.gov/) là có thể xem đầy đủ các báo cáo này. Vì lý do chuyên môn, tôi chỉ đề cập đến Báo cáo nhan đề: “Những quan sát về GDĐHVN trong các ngành Công nghệ Thông tin, Kỹ thuật Điện - Điện tử và Vật lý tại một số trường đại học Việt Nam ”. Thông qua việc khảo sát 4 trường đại học hàng đầu (không nêu rõ tên), các nhà khoa học Mỹ tập trung đánh giá (trong báo cáo dùng từ rất khiêm tốn là “quan sát”) 5 vấn đề: (1) Công tác giảng dạy và học tập ở bậc đại học; (2) Chương trình đào tạo và các môn học ở bậc đại học; (3) Giảng viên; (4) Đào tạo và nghiên cứu ở bậc sau đại học; (5) Đánh giá kết quả học tập của sinh viên và hiệu quả của nhà trường. Kết quả đánh giá (tóm tắt) đối với từng vấn đề trên được tổng hợp trong bảng dưới đây:
STT Vấn đề                                              

1 Giảng dạy và học tập ở bậc đại học

Kết quả đánh giá (quan sát):

Phương pháp giảng dạy kém hiệu quả : diễn thuyết, thuyết trình, ghi nhớ một cách máy móc, giao ít bài tập về nhà, ít có sự tương tác giữa sinh viên và giảng viên

- Sinh viên học quá nhiều trên lớp mỗi ngày và quá nhiều môn trong một học kỳ -> không có thời gian để lĩnh hội tài liệu

- Thiếu chú trọng đến phát triển các kỹ năng thông thường và nghề nghiệp (kỹ năng làm việc nhóm, giao tiếp, quản lý dự án, giải quyết vấn đề, óc sáng tạo, thói quen học tập suốt đời, v.v.)

- Thiếu trang thiết bị và nguồn lực

2 Chương trình đào tạo và các môn học ở bậc đại học

Kết quả đánh giá (quan sát)

- Có quá nhiều môn học (hơn 200 đơn vị học trình)

- Có quá nhiều các môn học bắt buộc và ít môn tự chọn

- Nội dung của các môn học và chương trình đào tạo chưa được cập nhật

- Thiếu đào tạo các kỹ năng thông thường và nghề nghiệp (kỹ năng giao tiếp, thuyết trình, làm việc nhóm, giải quyết vấn đề, quản lý dự án, và tư duy phê phán)

- Thiếu linh hoạt trong việc chuyển đổi giữa các ngành đào tạo

- Các môn học và chương trình đào tạo không được xây dựng dựa trên những kết quả học tập mong đợi của sinh viên.

3 Giảng viên

Kết quả đánh giá (quan sát)

- Thiếu giảng viên về cả số lượng và chất lượng

- Giảng viên chưa cập nhật kiến thức chuyên ngành liên quan đến chương trình đào tạo, nội dung môn học, phương pháp giảng dạy và nghiên cứu

- Giảng viên dạy quá nhiều nhưng lương thấp, phải làm thêm, thiếu thời gian để nâng cao phương pháp giảng dạy, cập nhật nội dung môn học, tiếp xúc sinh viên, và nghiên cứu

- Cơ chế tưởng thưởng chủ yếu dựa trên thời lượng giảng dạy và thâm niên, chưa thực sự khuyến khích giảng viên thực hiện nghiên cứu.

4 Giáo dục và nghiên cứu sau đại học

Kết quả đánh giá (quan sát)

- Giảng viên sau đại học chưa cập nhật về chương trình đào tạo, nội dung môn học, thực hành giảng dạy và nghiên cứu mới nhất trong ngành của họ

- Thiếu các trang thiết bị nghiên cứu hiện đại trong phòng thí nghiệm dành cho giảng viên, sinh viên sau đại học

- Việc tuyển dụng giảng viên nội bộ đã cản trở cho việc tạo ra một môi trường nghiên cứu năng động

- Sự tách biệt giữa phòng thí nghiệm và các viện/trường nghiên cứu với các khoa đào tạo làm hạn chế các cơ hội cho giảng viên tham gia vào các hoạt động nghiên cứu

5 Đánh giá kết quả học tập của sinh viên và hiệu quả nhà trường 

Kết quả đánh giá (quan sát)

- Kết quả học tập mong đợi của sinh viên chưa được xác định và nêu rõ ở các cấp độ trường, khoa, ngành đào tạo, và môn học

- Hiệu quả trường, chất lượng ngành đào tạo và môn học không được đánh giá dựa trên kết quả học tập sinh viên

- Thiếu cơ sở hạ tầng nghiên cứu về trường (institutional research office)

Từ bảng trên, có thể thấy đánh giá của các nhà khoa học Mỹ là không sai đối với mặt bằng chung của GDĐHVN và cũng hoàn toàn không bất ngờ đối với những người trong cuộc. Những yếu kém của GDĐHVN lâu nay cũng đã được chúng ta tự đánh giá nhiều lần, thậm chí còn cụ thể và “nặng nề” hơn.

Công cuộc đổi mới GDĐHVN còn rất gian nan

Tôi không dám và cũng không muốn bình luận về phương diện vĩ mô vì ở nước ta đã có quá nhiều người thích nói những chuyện to tát, có tầm chiến lược dài hạn theo kiểu “tầm nhìn đến năm 2xxx” hơn là bàn đến những điều cụ thể, nhưng có tính phổ biến và có thể lại là gốc rễ của các giải pháp chiến lược. Trong phần còn lại của bài viết này, tôi chỉ trao đổi về một số bất cập hết sức cụ thể mà những giáo viên đại học chúng tôi nhìn thấy rất rõ trong quá trình thực thi nghề nghiệp của mình. Do khuôn khổ của bài viết, ở đây chỉ xin đề cập đến 2 vần đề: đó là đổi mới chương trình đào tạo và đổi mới phương pháp dạy và học.

Không phải chỉ có các nhà khoa học Mỹ mới phát hiện thấy mà có lẽ hầu hết các nhà giáo đại học Việt Nam từ lâu đã thấy rằng chương trình đào tạo đại học của chúng ta quá cồng kềnh mà lại không hiệu quả. Rất nhiều môn học không cần thiết hoặc cần thiết nhưng thời lượng vượt quá mức độ cần thiết của nó đối với sinh viên. Một ví dụ điển hình là các môn chính trị mà vì lý do “chính trị” nên lâu nay ít người dám “động” vào! Mới đây, trong Hội nghị Tổng kết năm học của các trường đại học, cao đẳng phía Nam (18/8/2007, Thành phố Hồ Chí Minh), GS. Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng Trường Đại học An Giang đã nói hộ suy nghĩ của chúng tôi: “Các môn học chính trị quá nặng, tốn nhiều thời gian. Lẽ ra, sinh viên chỉ cần học những cái chính. Thời gian còn lại dành đầu tư học những thứ khác thiết thực”. (Nguồn: VietNamNet, 19/8/2007). Không ai phủ nhận sự cần thiết của các môn chính trị, ở nước ngoài cũng vậy. Nhưng thời lượng dàn trải của các môn này trong chương trình đào tạo đại học của ta quả là bất cập. Nếu tinh giản nội dung đi đôi với đổi mới phương pháp dạy học (tăng cường thảo luận, viết tiểu luận, hoạt động ngoại khoá) thì chắc chắn sinh viên sẽ không còn vừa ngán, vừa sợ những môn học này nữa mà các chuyên ngành có thêm thời lượng để bổ sung các môn học cần thiết. Nếu xét trong phạm vi từng trường thì còn không ít những môn học “có vấn đề” như trên. Việc xây dựng các chương trình đào tạo cho đến nay vẫn rất cứng nhắc, mang tính áp đặt từ Bộ GD&ĐT. Các trường, và đặc biệt các khoa, bộ môn quản ngành hầu như rất ít quyền tự chủ trong xây dựng chương trình đào tạo. Lẽ ra, Bộ GD&ĐT với chức năng quản lý Nhà nước chỉ nên ấn định một khung kiến thức tối thiểu cho các ngành đào tạo bậc đại học, còn lại dành quyền chủ động cho các trường, các khoa, các bộ môn có điều kiện xây dựng “thương hiệu” cho mình. Đúng như nhận xét của GS Võ Tòng Xuân (nguồn đã dẫn): “Nếu được phép xác định nội dung đào tạo, cán bộ giảng dạy của các trường sẽ phấn khởi hơn, nhất là những người ở nước ngoài về, có nhiều đất dụng võ”.Tuy nhiên, ngay cả trong trương hợp Bộ “thông thoáng” nhưng xuống đến cấp trường lại không “thông thoáng” và không mạnh dạn thực hiện một cuộc “đại phẫu” về chương trình đào tạo vì sợ mất đoàn kết, sợ ảnh hưởng đến nền nếp ổn định (dù đã lỗi thời) của nhà trường, lãnh đạo sợ mất “ghế”... thì đâu vẫn sẽ hoàn đấy, bài ca “đổi mới chương trình đào tạo” sẽ còn tiếp tục được ca lên dài dài... Trường có quy mô càng lớn, có bề dày truyền thống càng “hào hùng” thì thách thức này càng lớn. Và trong cuộc đua đổi mới chương trình đào tạo, chính các trường nhỏ mới xây dựng và các trường ngoài công lập sẽ có lợi thế hơn chứ không phải là các “đại gia” top đã tồn tại mấy chục năm. Một số trường đại học công nghệ cho đến nay vẫn giữ thời gian 5 năm cho 1 khóa đào tạo bậc đại học. Ai cũng thấy như vậy là dài, chỉ nên đào tạo trong 4 năm như các nước tiên tiến trên thế giới. Nhưng với chương trình đào tạo cứng nhắc và ôm đồm như hiện nay, việc rút ngắn thời gian chắc chắn sẽ kéo theo việc giảm chất lượng đào tạo. Đã có trường thử rút xuống 4 năm sau đó lại phải quay lại 5 năm.

Những năm gần đây chúng ta nói rất nhiều đến việc đổi mới phương pháp dạy và học. Nhiều trường có chủ trương cụ thể và có hỗ trợ tích cực cho giáo viên. Bản thân các giáo viên nhiều người cũng đã chủ động đổi mới phương pháp giảng dạy của mình. Tuy nhiên, cho đến giờ phút này, theo nhận xét của tôi, với tư cách là một giáo viên đang trực tiếp đứng lớp, thành quả đáng ghi nhận nhất của xu thế này mới chỉ dừng ở mức “điện tử hóa các bài giảng”. Nhìn các thầy, cô giáo tay xách nách mang laptop, thậm chí cả máy chiếu, lên lớp (vì đa số các phòng học chưa được trang bị máy tính, máy chiếu tại chỗ - mà lý do nhiều khi không phải thiếu tiền mà vì khó quản lý) mà thấy cảm phục và thương cho các nhà giáoViệt. Vấn đề cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy và học ở bậc đại học chính là mối quan hệ thầy-trò.  Phải thay đổi mối quan hệ này từ chỗ “thầy chủ động – trò thụ động” (thầy đọc, trò chép) tiến đến mức cả thầy trò đều chủ động cùng hướng đến mục tiêu đem lại cho trò mức thu nhận kiến thức và kỹ năng cao nhất. để làm được điều đó, cần phân bố thời lượng một môn học, đặc biệt là các môn chuyên ngành, theo hướng giảm thời gian giảng lý thuyết trên lớp, tăng cường các hình thức thảo luận theo chủ đề, tăng cường các hình thức tự học có hướng dẫn và kiểm soát của giáo viên thông qua các bài tập lớn, đồ án môn học và các đề tài nghiên cứu khoa học. Nghĩa là, giáo viên phụ trách môn học phải được quyền quyết định dạy như thế nào và phải chịu trách nhiệm trước cơ sở đào tạo, trước sinh viên về kết quả học tập của sinh viên. Ngược lại, sinh viên dù muốn hay không cũng sẽ bị “lôi vào cuộc”, lúc đầu có thể chưa “thấm” nhưng dần dần và đặc biệt sau này khi đi làm mới thấy hết hiệu quả của phương thức dạy và học này. Thực ra, phương thức dạy và học này chỉ là mới đối với Việt Nam , nhiều giáo viên của chúng ta đã được đào tạo theo phương thức này khi học tập, tu nghiệp ở các nước tiên tiến trên thế giới. Tuy nhiên, nói thì “ngon” vậy, nhưng khi thực thi thì không đơn giản chút nào. Hầu hết các trường hiện nay vẫn quản lý đào tạo theo biên chế (hoặc tín chỉ nửa vời) nên các giáo viên ăn lương và thanh toán tiền dạy theo số tiết ấn định từ đầu (khi xây dựng chương trình đào tạo) cho môn học. Bởi vậy, việc quản lý giờ lên lớp của giáo viên khá chặt chẽ (nhiều trường có ban Thanh tra Giáo dục được giao nhiệm vụ này). Giáo viên dạy ít giờ sẽ được hưởng ít tiền bù giờ, vượt giờ. Trừ một số ít giáo viên có việc làm thêm bên ngoài, còn đa số giáo viên chỉ sống bằng nghiệp “bán cháo phổi”. Lương giáo viên (kể cả lương Giáo sư) đã quá thấp nên chẳng ai muốn tự mình làm hại mình vì những cố gắng đổi mới phương pháp dạy học. Cứ cố gắng “bôi” cho đủ số giờ ấn định. Thậm chí khi xây dựng chương trình đào tao, việc giảm thời lượng các môn học cho hợp lý hơn và để có thể đưa thêm môn học mới vào cũng không đơn giản, không ít giáo viên đấu tranh đến cùng để thời lượng của môn học mình phụ trách chỉ có tăng chứ không giảm! Thực tế đó cho thấy muốn đổi mới phương pháp dạy và học hiệu quả thì trước hết phải đổi mới cơ chế quản lý đào tạo để khuyến khích các giáo viên thực hiện. Phải làm sao để việc đổi mới phương pháp giảng dạy mang lại lợi ích thiết thực (cả tinh thần lẫn vật chất) cho giáo viên, chứ không thể chỉ đòi hỏi giáo viên phải tâm huyết, trách nhiệm khi Nhà nước chưa trả được đồng lương xứng đáng với nghề nghiệp của họ.

Gần đây báo chí  nói “hơi” nhiều về chuyện Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thiện Nhân lên bục giảng bài ở lớp tập huấn các hiệu trưởng đại học và đã có 2 ý tưởng “mới” (theo lời báo chí) là: (1) cho phép sinh viên đánh giá giáo viên, và (2) cho phép sinh viên đại học mở tài liệu khi thi. Chắc chắn bản thân GS Nhân, đã từng là một giảng viên đại học, biết rất rõ rằng ý (1) chỉ mới đối với Việt Nam, còn ý (2) thì hoàn toàn không mới ngay cả ở Việt Nam. Cả 2 ý này đều nằm trong phạm trù phương pháp dạy/học và quan hệ thầy/trò mà chúng ta cần đổi mới. Việc sinh viên nhận xét, đánh giá giáo viên mặc dù chưa phải là một giải pháp hoàn toàn tích cực (vì đôi khi đó là con dao 2 lưỡi) nhưng tôi nghĩ rằng các giáo viên có năng lực chuyên môn, trung thực và tâm huyết với nghề sẽ coi đó là chuyện bình thường. Nhưng đừng vì chuyện này mà làm cho quan hệ thầy – trò biến thành quan hệ thương mại khi một số báo coi sinh viên là khách hàng, giáo viên là người phục vụ nên khách hàng (là Thượng đế) có quyền đòi hỏi mọi thứ ở người phục vụ. Chưa nói đến không ít “Thượng đế” chỉ quan tâm đến mảnh bằng chứ có cần kiến thức đâu mà yêu cầu các thầy phải dạy giỏi? Tình trạng sinh viên vô cảm với bài giảng của giáo viên nhiều khi làm cho các thầy cô chán ngán. Bản thân tôi đã có lần phải nói thẳng với một số lớp sinh viên: tôi giảng hay dở như thế nào thì các em phải biểu lộ cho tôi biết chứ. Cũng phải có thời gian để sinh viên dần dần ý thức và phát huy một cách trung thực quyền dân chủ mà họ được trao. Tuy nhiên, cái khó của việc này theo tôi lại không nằm ở “đương sự” (giáo viên, sinh viên) mà ở phía quản lý: ai sẽ xử lý và xử lý như thế nào để đảm bảo việc này không nhằm đến một mục tiêu nào khác ngoài mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo? Ngoài ra, một câu hỏi sẽ được các giáo viên đặt ra: sinh viên (và cả giáo viên nữa) có được nhận xét, đánh giá các cán bộ quản lý (kể cả Giám đốc, Hiệu trưởng) của cơ sở đào tạo không? Bởi chất lượng của đội ngũ này có ảnh hưởng không nhỏ đối với quá trình đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo của một cơ sở đào tạo đại học. Nếu có, thì ai sẽ xử lý và xử lý như thế nào các nhận xét, đánh giá đó để việc làm này đừng mang nặng tính hình thức như các cuộc thăm dò bổ nhiệm cán bộ vẫn làm hiện nay. Còn việc kiểm tra, thi ở bậc đại học thì có quy định nào nói sinh viên tuyệt đối không được mở tài liệu đâu? Hoàn toàn tùy thuộc ở giáo viên ra kiểu đề gì! Tuy nhiên, bản thân tôi đã có lần hỏi thử sinh viên muốn thi kiểu gì thì đa số sinh viên trong lớp đề nghị cho thi theo kiểu “không được sử dụng tài liệu”, bởi họ biết rằng thi kiểu “được sử dụng tài liệu” thường khó làm, khó học tủ và khó cả... việc copy bài của bạn nữa! Để thi được theo kiểu “mở tài liệu” thì sinh viên phải từ bỏ cách học đối phó, chủ động và nỗ lực cao trong việc thu nhận kiến thức và rèn luyện kỹ năng liên quan.

Ngổn ngang trăm mối tơ vò

Thực ra còn rất nhiều suy nghĩ, trăn trở về các vấn đề quan trọng khác của GDĐHVN nhưng không thể nói hết trong khuôn khổ bài viết này. Ví như Đề án đào tạo 20.000 Tiến sỹ, hay các đề án mà Bộ GD&ĐT đang được xúc tiến nhằm xây dựng các trường đại học “đẳng cấp quốc tế”, trong đó có Đề án Xây dựng Trường Đại học Khoa học và Công nghệ trên cơ sở Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam với hy vọng đó sẽ là một MIT của Việt Nam, một ứng cử viên quan trọng trong cuộc chạy đua để đến năm 2020 sẽ có mặt ít nhất 1 trường đại học VN trong top 200 của các trường đại học thế giới! Ý tưởng rất đẹp, và nhìn thoáng qua có vẻ logic, nhưng tôi (và tôi biết còn có rất nhiều người khác nữa) hoàn toàn chia sẻ với những thách thức to lớn mà đội ngũ cán bộ nghiên cứu, quản lý của Viện KH&CN VN sẽ phải đối mặt. Bộ GD&ĐT lại mới bổ sung thêm “2 không” nữa vào khẩu hiệu phấn đấu cho các trường đại học năm học này: “nói không với đào tạo không đạt chuẩn” và “nói không với đào tạo không đáp ứng nhu cầu của xã hội”. Thế nào là chuẩn cho GDĐHVN? Ai sẽ kiểm định việc đạt hay không đạt chuẩn và nếu không đạt thì xử lý thế nào? Nhu cầu của xã hội được xác định cụ thể như thế nào? Hiện tại có trường nào, ngành nào đang đào tạo không theo nhu cầu xã hội?... Chắc là sẽ còn nhiều diễn đàn xung quanh  “2 không mới” này trong khi “2 không cũ” (“nói không với tiêu cực” và “nói không với bệnh thành tích”) phát động từ năm học trước có vẻ như chỉ mới tập trung vào 2 cuộc thi chung (tốt nghiệp PTTH và tuyển sinh đại học) chứ chưa tác động gì đến các trường đại học, ngoài việc xuất hiện các khẩu hiệu hoành tráng ở các cổng trường!
Nhiều việc ngổn ngang quá, bề bộn quá, mà chưa thấy những giải pháp cơ bản và khả thi làm cho những người giáo viên đứng lớp như tôi cảm thấy ngổn ngang trăm mối tơ vò. Viết đến đây tự nhiên tôi lại nhớ đến bài báo của tác giả Nguyễn Bỉnh Quân đã đăng trên Tia Sáng đầu năm nay nhan đề: “Chấn hưng Giáo dục và Đào tạo - Rối cờ !?” (Tia Sáng, Số 2, 20/1/2007).

Nhiều nhà khoa học, nhà giáo người Việt, bao gồm cả người Việt ở nước ngoài, đã nhiều lần “tự mổ xẻ” và “mổ xẻ” GDĐHVN và cũng kiến nghị, đề xuất đủ điều. So với các đánh giá của người Việt, các đánh giá của người Mỹ vẫn có vẻ “nhẹ nhàng” hơn. Có thể dù rất thẳng thắn và khách quan nhưng các vị khách của chúng ta vẫn không thể không giữ lại chút “lịch sự ngoại giao” cần thiết. Có thể vì các khảo sát của người Mỹ chỉ giới hạn trong 4 trường tốp đầu, nếu mở rộng ra cả mấy trăm trường đại học còn lại, đặc biệt là các trường công lập địa phương mới được ồ ạt “đôn lên” từ các trường cao đẳng, và cả các trường ngoài công lập đủ loại, chắc chính các nhà khoa học Mỹ mới là người bị bất ngờ chứ không phải chúng ta. Dân ta có câu: “Có ở trong chăn mới biết chăn có rận’! Các nhà khoa học Mỹ thực ra cũng chỉ mới cầm một góc chăn (mà lại là góc sạch sẽ nhất) GDĐHVN và ngó vào, cũng có thể thấy đôi ba con rận, nhưng chắc chắn là họ chưa có điều kiện nằm trong chăn nên chưa thể bị rận đốt như người Việt chúng ta được! Mà người Việt chúng ta ngày nay đâu có còn là “ếch ngồi đáy giếng”, ngay trong số những giáo chức đại học trong nước đã có bao nhiêu người được đào tạo từ các nền GDĐH tiên tiến nhất trên thế giới.  Nhưng có lẽ do “Bụt Chùa nhà không thiêng” hoặc do tâm lý “sính đồ ngoại”, “chuộng hàng hiệu” của các nhà quản lý nước ta nên chắc chắn chúng ta sẽ còn được tiếp tục đọc nhiều báo cáo ngoại “đúng nhưng không mới” nữa!

Nguồn: Tạp chí Tia Sáng, số 18, 20/9/2007, tr 18

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.