Ðổi mới cơ chế quản lý trong khoa học, tăng cung cho thị trường công nghệ
Hiện nay, có sự tương phản rõ rệt giữa số lượng đông đảo các viện, trường đại học và lực lượng tham gia nghiên cứu với các chỉ tiêu về số lượng và chất lượng của các sản phẩm nghiên cứu triển khai. Số công trình công bố trên các tạp chí quốc tế được thừa nhận, số các tác giả được trích dẫn, số các bằng phát minh sáng chế, kiểu dáng công nghiệp được đăng ký trên 1.000 người dân... ở Việt Nam đều ở mức rất thấp so với khu vực và thế giới.
Trong các khâu từ hoạch định chiến lược, xác định thứ tự ưu tiên, kế hoạch hóa đến chỉ đạo thực hiện, triển khai, v.v. đều có vấn đề phải cải cách, hiện đại hóa thì khâu tổ chức thực hiện và triển khai trong thực tế có lẽ là khâu yếu nhất.
Cần phân biệt và xếp loại các viện nghiên cứu thành những viện chủ yếu được tài trợ bằng ngân sách Nhà nước và những viện chủ yếu phải tự nghiên cứu, bán sản phẩm, đưa vào sản xuất, kinh doanh là chính và xác định một thời gian quá độ để chuyển các viện nghiên cứu sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp khoa học, công nghệ, lấy thu bù chi, hưởng theo kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn, không hạn chế mức lương tối đa, không ràng buộc việc nâng bậc, trả lương vào các quy định áp dụng cho hệ công chức hành chính.
Một viện như vậy phải hoạt động theo cơ chế tự chủ tài chính, được giao tài sản ban đầu do Nhà nước đầu tư, tài sản trí tuệ, tên viện có giá trị như một thương hiệu. Viện tự tìm đề tài và nguồn tài chính để nghiên cứu và trả lương. Nhà nước đặt hàng qua đấu thầu và chỉ thanh toán hết khi kết quả đã được đưa vào kiểm nghiệm trong thực tế. Chính trong quá trình triển khai, ứng dụng, kết quả nghiên cứu được tiếp tục hoàn chỉnh.
Nhu cầu vốn để đưa kết quả vào thử nghiệm rất lớn và phải được bù đắp qua cơ chế thị trường, thông qua các quỹ tín dụng cho nghiên cứu hay quỹ đầu tư mạo hiểm cho khoa học. Nhà nước lập quỹ này, đầu tư ban đầu, quỹ sẽ tự phát triển thông qua hoạt động tín dụng cho các yêu cầu nghiên cứu triển khai. Thu nhập của nhà khoa học bao gồm tiền lương, tiền bán bằng phát minh sáng chế, bản quyền, kiểu dáng công nghiệp và tham gia vào lợi nhuận thu được trong quá trình vận dụng kết quả nghiên cứu trong thực tế.
Quá trình sàng lọc qua thực tế sẽ rất khắt khe, là cơ hội để thể nghiệm cho những nhà khoa học chân chính, thành đạt và cùng sàng lọc các kết quả không có khả năng ứng dụng, không có ý tưởng mới và không được vận dụng. Viện sẽ sàng lọc, đào thải các nhà khoa học thông qua các hợp đồng lao động có thời hạn. Mỗi nhà khoa học nên thay đổi chỗ làm việc sau hai nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ từ bốn đến năm năm. Sự thay đổi này sẽ có lợi cho cả hai bên viện và nhà khoa học và giảm bớt được thói bè phái, cục bộ vốn xuất hiện không ít trong thực tế.
Hiện nay, ở Việt Nam có 160 nghìn doanh nghiệp và 2,2 triệu hộ kinh tế gia đình hoạt động. Trong đó có khoảng 4.000 doanh nghiệp nhà nước chưa được cổ phần hóa, 4.000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, còn lại là doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa (khoảng 1.900 doanh nghiệp), 9.000 công ty cổ phần, còn lại là công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân. Các hộ kinh tế gia đình thường có quy mô nhỏ, có dưới 30 lao động, tuy vậy cũng có hộ kinh tế gia đình trá hình có quy mô còn lớn hơn doanh nghiệp đăng ký, song số này không nhiều.
Các hộ nông dân thường có quy mô nhỏ, khả năng tài chính để đầu tư đổi mới công nghệ thấp, khả năng tự túc được vốn để mua trang thiết bị kỹ thuật, giống cây, con mới bị hạn chế nhiều.
Theo các tiêu chí của Nghị định 90/2001/NÐ-CP thì 80% số doanh nghiệp ở nước ta có quy mô nhỏ, 47% số DNNN có quy mô dưới năm tỷ đồng (không kể đất). Các doanh nghiệp lớn thường có vị trí độc quyền, thường chỉ đầu tư đổi mới công nghệ để đạt lợi nhuận độc quyền cực đại và sau đó ít quan tâm đổi mới vì không chịu sức ép cạnh tranh. Theo kết quả kiểm toán chín tổng công ty, động lực cho giám đốc doanh nghiệp nhà nước thấp, hầu hết các doanh nghiệp nhà nước hoạt động dưới khả năng của mình. Nếu không thay đổi cơ chế, giám đốc DNNN không dám mạo hiểm, chịu rủi ro và khả năng đổi mới công nghệ sẽ rất chậm so với các đối thủ cạnh tranh khác.
Cơ chế hiện nay cho phép các giám đốc sống sót dựa vào quan hệ cá nhân chứ không cần đến thị trường và khách hàng. Tình trạng thua lỗ thường chỉ bộc lộ khi đã kéo rất dài và trở nên rất nghiêm trọng làm cho quá trình hồi phục, hiện đại hóa rất tốn kém và kéo dài. Phần lớn các doanh nghiệp chưa quan tâm đầu tư khoa học, công nghệ, 47% số doanh nghiệp không có chiến lược dài hạn, không phân tích thị trường, không biết đối thủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp đang cạnh tranh và xuất khẩu đã vượt lên nhiều so với các doanh nghiệp khác. Ðã xuất hiện nhiều điển hình tốt như Việt Tiến, Phong Phú, Thái Tuấn, Biti"s, v.v.
Trong hai năm gần đây, phong trào xây dựng thương hiệu, đổi mới công nghệ đã bắt đầu khởi sắc và ngày càng có nhiều doanh nghiệp ý thức được tầm quan trọng về đổi mới khoa học - công nghệ. Phương pháp huy động vốn chủ yếu dựa vào kênh ngân hàng. Một số công trình lớn có thể được phát hành trái phiếu, song số này không nhiều. Thị trường chứng khoán chính thức còn có quy mô quá nhỏ bé và nhiều doanh nghiệp còn e ngại chưa dám công khai tài chính, kiểm toán, làm cáo bạch để tham gia thị trường chứng khoán và huy động vốn qua kênh này. Như vậy, nguồn tài chính để đổi mới công nghệ rất hạn chế và đây là một nguồn gốc dẫn đến chậm đổi mới công nghệ.
Tình hình trên sẽ thay đổi nhanh chóng trong thời gian tới khi hội nhập trở thành hiện thực. Nhiều dịch vụ nay còn độc quyền sẽ phải chấp nhận cạnh tranh với các đối thủ mạnh hơn và có nhiều kinh nghiệm hơn. Các doanh nghiệp phải cấp bách chuẩn bị về nhiều mặt để cạnh tranh và sống sót trong cuộc cạnh tranh đó. Nhà nước phải có chính sách và cơ chế riêng đối với nông dân, thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất, nhanh chóng đi lên sản xuất lớn qua các kênh thích hợp (hợp tác xã, trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp), hỗ trợ về công nghệ, vốn.
Ðối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các trung tâm chuyển giao công nghệ, vườn ươm doanh nghiệp, Quỹ tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ, cụm công nghiệp theo Nghị định 90/2001/NÐ-CP cần phát huy tác dụng để trợ giúp cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Có thể hy vọng rằng, quá trình đổi mới công nghệ, chuyển giao công nghệ ở nước ta sẽ được đẩy mạnh lên hơn nhiều so với hiện nay.
Nguồn: nhandan.com.vn 2/3/2006