Doanh nghiệp nhỏ có thể tạo thương hiệu lớn
Sở hữu trí tuệ, Việt Nam rút kinh nghiệm quốc tế tốt
- Bà nhìn nhận ra sao về mức độ bảo vệ quyền SHTT của Việt Nam so với các nước cùng trình độ phát triển?
Điểm hạn chế của Việt Nam là nền pháp trị chưa có bề dày. Tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam áp dụng ví dụ điển hình từ các nước khác rất tốt. Nhiều nước không có trình độ phát triển khoa học, công nghệ, không có tài kinh doanh như Việt Nam .
Việt Nam cũng thường xây dựng chiến lược dài hơi dựa trên tầm nhìn dài hạn.
- Thách thức của Việt Nam trong bảo vệ quyền SHTT là gì?
Do đặc điểm địa lý, Việt Nam đối mặt với nguy cơ nhiều hàng giả từ các nước lân cận. Sẽ rất khó cho các DN Việt quản lý chuỗi cung hàng hóa đầu vào, và khó cho các DN nước ngoài quản lý hàng hóa được bán tại thị trường Việt Nam . Khi không có cơ chế quản lý tốt chuỗi cung, Việt Nam sẽ gặp vấn đề trong quản lý hàng giả.
Việt Nam cũng không có nhiều kinh nghiệm trong xây dựng luật về SHTT.
Điểm sáng là con người Việt Nam thông minh, chăm chỉ, sức sáng tạo lớn, và có tài kinh doanh. Khi luật pháp tiến kịp với sức mạnh của con người, nó sẽ phát huy tác dụng rất tốt đối với nền kinh tế.
Jennie Ness là tùy viên phụ trách vấn đề sở hữu trí tuệ (SHTT) tại khu vực Đông Nam Á. Bà từng là luật sư - cố vấn tại phòng Các vấn đề pháp chế quốc tế, Cục Sáng chế và Thương hiệu Hoa Kỳ, tham gia thụ lý các vấn đề về thương mại điện tử và SHTT tại hãng Dow, Lohnes & Albertson. |
- Với nước đang phát triển như Việt Nam , người dân nhiều khi chủ tâm mua hàng giả để tiết kiệm?
Đúng là có trường hợp người tiêu dùng chủ tâm mua hàng giả nhưng nhiều người khác không biết mình mua phải hàng giả. Dù trong trường hợp nào, người tiêu dùng cũng bị đe dọa khi thị trường tràn ngập loại hàng này.
Người sở hữu quyền SHTT nhỏ cũng khó phát triển. Ví dụ, không ai thực sự cần nghe nhạc, chỉ là muốn nghe. Khi bạn không có nhiều tiền, bạn sẽ tìm mua các đĩa nhạc không bản quyền. Việc này sẽ không ảnh hưởng gì nhiều đến Britney Spears, Madona... tại thị trường Việt Nam nhưng các ca sĩ Việt Nam chính là người chịu thiệt, không thể bán được đĩa.
Xây dựng Luật SHTT cần tính lợi ích người tiêu dùng và DN
![]() |
| Các doanh nghiệp Việt Nam đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ? |
Thú thật, tôi thích đến Hà Nội mua sắm những bộ quần áo, túi xách, giày dép, đồ gỗ và đồ gia dụng... được thiết kế rất đẹp. Tuy nhiên, nếu quyền SHTT không được thực thi nghiêm túc, các nhà thiết kế nhỏ không thể đưa sản phẩm thiết kế ra ngoài bán vì sợ bị làm nhái.
Vấn đề không chỉ nằm ở các điều khoản luật mà quan trọng là hiệu quả thực thi. Người sở hữu quyền SHTT khi phát hiện có hiện tượng sao chép muốn ngay lập tức dừng việc sao chép đó. Tuy nhiên, việc này khó áp dụng tại Việt Nam .
Hiện một số hình thức sao chép được pháp luật Việt Nam cho phép và một số do hạn chế trong thực thi của các cơ quan chức năng.
- Điều kiện Việt Nam khác với Mỹ. Theo bà, các nhà lập pháp Việt Nam nên có quy định về Luật SHTT mang tính đặc thù, phù hợp với điều kiện Việt Nam không?
Về cơ bản, chúng ta có thể điều chỉnh tinh thần của Luật SHTT trong từng trường hợp cụ thể. Camkết WTO về quyền SHTT cũng linh hoạt cho từng nước, phù hợp với điều kiện của nước đó.
Chính phủ Việt Nam cần xem xét cẩn trọng việc bảo vệ hay không bảo vệ sẽ tác động như thế nào đối với hoạt động của DN, để các DN vừa và nhỏ phát triển và đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng...
Không cần đầu tư quá lớn để tạo tác phẩm nghệ thuật, xây dựng được một thương hiệu mạnh. Chính phủ Việt Nam có thể tìm cách phát triển lĩnh vực này, làm việc với các DN vừa và nhỏ để giúp họ.
Chính phủ kết nối khu vực nghiên cứu và DN
- Mục tiêu của Việt Nam là xây dựng nền kinh tế sáng tạo. Theo bà, điều Việt Nam thiếu nhất là gì?
Mỹ có bề dày trong lĩnh vực bản quyền. Rất ít người trên thế giới chưa từng xem phim, nghe nhạc Mỹ. Tình hình Việt Nam không như thế. Điều này không vì người Việt thiếu sức sáng tạo mà sự hỗ trợ pháp lý cho bản quyền nghệ thuật tại Việt Nam thấp.
Ví dụ, trong sáng chế, trong những năm 1950-1960, Chính phủ Mỹ đã đầu tư lớn vào nghiên cứu. Đến đầu những năm 1980, Mỹ nhận thấy rất ít các nghiên cứu được Chính phủ Mỹ tài trợ được đem vào áp dụng trong sản phẩm thương mại.
Mỹ đã quyết định thông qua một đạo luật cho phép các trường ĐH, viện nghiên cứu sử dụng nguồn quỹ Chính phủ để nghiên cứu và làm việc với các DN tư nhân để thương mại hóa các nghiên cứu đó. Khi khu vực thương mại phát triển mạnh nghiên cứu phát triển, Chính phủ giảm đầu tư. Kết quả là số lượng đơn đăng ký cấp bằng sáng chế khoa học tăng đáng kể.
Không chỉ hỗ trợ cho nghiên cứu phát triển mà quan trọng hơn, Chính phủ thúc đẩy lĩnh vực tư nhân tham gia, và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu.
Nhà khoa học rất giỏi ngồi trong phòng lab, nghĩ ra các ý tưởng mới nhưng không giỏi trong việc tìm ra nghiên cứu đó sử dụng trong thương mại như thế nào. Chính phủ vì thế tìm cách kết nối khu vực nghiên cứu và khu vực kinh tế tư nhân để thương mại hóa nghiên cứu.
DN nhỏ có thể tạo thương hiệu lớn
- Có phải c ác DN Mỹ đa phần là các DN vừa và nhỏ? Vậy họ xây dựng thương hiệu như thế nào?
Nhiều người có ấn tượng Mỹ là đất nước với nhiều công ty lớn, nhưng các công ty nhỏ mới là động lực phát triển kinh tế. Nước Mỹ hiện có khoảng 23 triệu DN vừa và nhỏ.
Ở Mỹ, có DN vừa và nhỏ đã tạo nên những thương hiệu lớn. 10 năm trước, hai sinh viên tốt nghiệp ĐH của Mỹ làm việc cho một gara nhỏ của người bạn. Họ đã phát minh ra cách thức mới tìm kiếm thông tin trên mạng. Năm ngoái, nhãn hiệu hai người này sáng chế ra là một trong những nhãn hiệu có giá trị nhất thế giới, được định giá 66 triệu USD. Đó là Google. (66 triệu USD chỉ là giá trị thương hiệu, chưa tính đến các sáng chế, phát minh và phần mềm thuộc sở hữu của Google).
Đó là ví dụ rất điển hình của việc các DN nhỏ chỉ hai người có thể làm được khi xây dựng thương hiệu. Câu chuyện thành công của Google không phải không thể xảy ra ở nơi khác.
Sáng chế và tính sáng tạo chính là động lực của phát triển kinh tế, và SHTT là động lực của nền kinh tế mới.
20 năm trước, định giá DN, người ta thường tính đến nhà cửa, máy móc, thiết bị, những tài sản hữu hình. Ngày nay, ở Mỹ, 47% trị giá của công ty là giá trị của SHTT. Tài sản SHTT trên nước Mỹ lên tới 5.000 tỷ USD. Các ngành này phát triển nhanh nhất ở Mỹ. Việt Nam cũng tương tự với việc phát triển các DN công nghệ ở TP.HCM và DN phần mềm ở Hà Nội.
Nhà nước cần trang bị kiến thức SHTT cho DN
- Các DN Việt Nam muốn thâm nhập thị trường Mỹ sẽ gặp khó khăn gì trong vấn đề SHTT?
Khó khăn của DN Việt giống như của DN Mỹ muốn thâm nhập ra bên ngoài. Theo khảo sát của Cục Bằng sáng chế và thương hiệu Mỹ, 85% DN được hỏi không hiểu điều quan trọng trong SHTT là nhãn hiệu, sáng chế chỉ có giá trị trong một lãnh thổ nhất định. Nếu bạn đăng ký nhãn mác ở Việt Nam , việc đăng ký đó không có giá trị ở Mỹ, Anh, Pháp hay bất kỳ quốc gia nào khác.
Đối với DN vừa và nhỏ, cái khó nhất là định ra nước nào họ muốn tiến hành đăng ký quyền SHTT. Chi phí của việc này không nhỏ. Các DN cần tìm đến các luật sư, cố vấn pháp luật để đưa ra chiến lược hợp lý.
Các DN Việt cần xác định rõ thị trường nào mình muốn bảo vệ quyền SHTT và DN sẵn sàng đầu tư bao nhiêu tiền trước khi thực sự bắt tay vào hoạt động tại quốc gia đó.
Một lời khuyên nữa cho DN là phải thận trọng trong lựa chọn và sử dụng nhãn hiệu hàng hóa. Ví dụ, hãng Cocacola khi mới bước vào thị trường Trung Quốc đã dịch tên của mình ra tiếng Hoa phổ thông, có âm giống "con nòng nọc kia hãy ăn miếng sáp". Người Trung Quốc khi khát sẽ "làm" một lon "nòng nọc ăn sáp".
Một trường hợp khác, hãng xe của Mỹ đưa ra sản phẩm NOVA (trong tiếng Anh là một ngôi sao). Một trong những thị trường chính của Mỹ là Mexico , nước sử dụng tiếng Tây Ban Nha. Nova trong tiếng Tây Ban Nha lại là "không chạy được". Một chiếc xe mang tên "không chạy được" chắc chắn không phải là sự giới thiệu hay và thành công của hãng này tại thị trường Mexico .
- Các cơ quan nhà nước có thể giúp gì cho các DN trong vấn đề này?
Năm 2005, Mỹ nhận thấy các DN vừa và nhỏ không biết nhiều về quyền SHTT. Do đó, việc cần làm trước hết là nâng cao hiểu biết về quyền SHTT, do đó đã tiến hành hội thảo toàn nước Mỹ để các DN hiểu cách bảo vệ quyền SHTT trên toàn thế giới.
Những việc Việt Nam đang làm cùng với phía Mỹ, trang bị thông tin cho DN hiện nay cũng nằm trong nỗ lực đó. Trong tuần qua đã có 6 cuộc tọa đàm với các nhóm DN vừa và nhỏ của Việt Nam .
Phía Mỹ cũng từng tổ chức các chương trình ngắn hạn trên website, tạo điều kiện để mọi người truy cập và theo dõi bài giảng. Hiện nay, Việt Namvà Mỹ đang tính đến khả năng dịch các bài giảng trực tuyến ra tiếng Việt để các DN vừa và nhỏ của Việt Nam tìm hiểu. Trong nền kinh tế hội nhập, Internet là nguồn tra cứu khổng lồ.
Nguồn: Vietnamnet.vn, 3/2008








