Doanh nghiệp KHCN: Thực hiện phải mềm dẻo
- Thưa GS, ông đã từng là TGĐ Petro Việt Nam, có lẽ ông có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý doanh nghiệp, nhất là hiểu rõ ứng dụng nghiên cứu KHCN có thể đem lại lợi gì cho doanh nghiệp. Vậy ông có thể lý giải tại sao một số cơ quan chủ quản lại không tha thiết với việc này?
- Có thể có nhiều nguyên nhân, có lẽ nguyên nhân quan trọng là sức ỳ của tư duy quản lý. Các hình thức chuyển đổi cơ chế hoạt động KHCN đều phải vượt qua những hàng rào rất kiên cố cả về tâm lý lẫn phương pháp quản lý. Ai mà chẳng muốn thoải mái trong quản lý (nhất là khi cách quản lý đó đã quá ổn với họ); thay đổi phương thức quản lý là việc làm luôn luôn có sức ỳ lớn. Cơ chế bao cấp tuy tạo ra trì trệ, ỷ lại, thụ động… nhưng lại rất an toàn đối với cả lãnh đạo lẫn những thành viên trong tổ chức bị quản lý.
- Giáo sư có thể giải thích rõ hơn về chữ “an toàn”? Có người đã đưa hình ảnh “con rùa” để ám chỉ giới khoa học - sức ì, chậm chạp, bảo thủ thậm chí cả không dám nhận trách nhiệm, sợ bị bóc mẽ…
- Theo tôi, sự không tha thiết của cơ quan chủ quản đối với chủ trương chuyển đổi một tổ chức cấp dưới sang hình thức hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm đã phản ánh phần nào tư duy của tổ chức đó. Một khi cơ chế thay đổi, độ rủi ro sẽ không nhỏ, trách nhiệm nặng nề hơn đối với tất cả các cấp quản lý và lãnh đạo. Có những khó khăn không dễ vượt qua, ví dụ những người “thừa” giải quyết ra sao? Hiện có không ít những “nhà” nghiên cứu thực ra chẳng nghiên cứu gì cả. Bằng cấp, học vị, chức danh có đấy, nhưng không phát huy được gì cả. Còn những khó khăn khác nữa. Những khó khăn đó sẽ đặt hết lên vai những người lãnh đạo, cho nên họ ngần ngại, không muốn mạo hiểm là vì vậy.
- Hiện Chính phủ đã ban hành Nghị định doanh nghiệp KHCN với rất nhiều ưu đãi, nhưng theo GS điều gì mà các nhà khoa học thực sự cần để mô hình doanh nghiệp KHCN thực sự hoạt động có hiệu quả?
-Theo thiểu ý của tôi, trước hết phải làm thế nào để những nhà khoa học có tâm huyết và tài năng được trọng dụng bằng những chính sách khuyến khích, mà hơn hết là phải cho họ cái quyền được tự do sáng tạo. Chủ trương thì nhất quán nhưng biện pháp thực hiện thì phải mềm dẻo. Cần phải lường trước được thực trạng là: sẽ xuất hiện những nhà khoa học trẻ nhưng đầy sáng tạo, có bản lĩnh, chịu đứng mũi chịu sào trong triển khai các kết quả nghiên cứu. Những nhà khoa học thuộc thế hệ đàn anh phần lớn là uyên bác (không kể những người đã lạc hậu với thế giới) nhưng dễ ngại ngùng trước những thách thức gay gắt của nền kinh tế thị trường. Họ nên ở tuyến sau để hỗ trợ cho những tài năng trẻ. Về phía chủ trương chính sách xin góp một ý là cần đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp KHCN.
Nguồn: Khoa học & Đời sống, số 43, 31/5/2007, tr.4

GS. TS Hồ Sĩ Thoảng (ảnh) cho biết: Một điều rất sơ đẳng ai cũng biết là ứng dụng những kết quả nghiên cứu trong phòng thí nghiệm vào sản xuất và đời sống là rất gian nan. Trong đó, khó khăn lớn nhất là chi phí cho nó lớn hơn nhiều so với chi phí nghiên cứu, trong khi tính rủi ro lại khá cao. Nghĩa là giữa nghiên cứu và triển khai có một cái cầu mà nó lại quá chật hẹp và mỏng manh để có thể di chuyển bên này sang bên kia một cách thông suốt. Doanh nghiệp KHCN chính là phương thức làm cho cái cầu đó rộng ra, dễ đi hơn, tất nhiên dòng chảy sẽ tốt hơn. 







