Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 03/05/2012 21:26 (GMT+7)

“Đoan Môn” ở Thăng Long Hà Nội có từ bao giờ?

Tư liệu sớm nhất có khắc ghi hai chữ “Đoan Môn” là bia tháp Sùng Thiện Diên Linh chùa Long Đọi Sơn (Duy Tiên, Hà Nam) tác giả Nguyễn Công Bật, niên đại Tân Sửu, Thiên Phù Duệ Vũ năm thứ 2 (1121). Văn bia cho biết sân rồng (Long Trì) trước Đoan Môn thế kỷ XII đã là nơi vua Lý Nhân Tông tổ chức hội đèn Quảng Chiếu; hướng sân trước Đoan Môn” (Kiến Quảng Chiếu chi đăng đài; hướng Đoan Môn chi đình thượng) (2). Tuy nhiên, khảo sát các bộ chính sử của Việt Nam thời Trung đại như Đại Việt sử lược(thế kỷ XIV), Đại Việt sử ký toàn thư(thế kỷ XVII), Khâm định Việt sử thông giám cương mục(thế kỷ XIX), hay những tác phẩm thông sử của Nguyễn Huy Oánh ( Quốc sử toản yếu,thế kỷ XVIII), Ngô Thì Sỹ (Đại Việt sử ký tiền biên, Việt sử tiêu án,thế kỷ XVIII), hoặc của Đặng Xuân Bảng ( Việt sử cương mục tiết yếu,thế kỷ XIX) (3), tên gọi chuẩn xác “Đoan Môn” hoàn toàn chưa hiện diện trong biên niên sự kiện thời Lý - Trần - Hồ (thế kỷ XI-XIV - đầu thế kỷ XV). Chúng ta chỉ thấy một gác Đoan Minh, thậm chí là Thụy Minh, trong sự kiện duy nhất năm 1053; mọt cửa Dương Minh trong sự kiện năm 1281 (4). Mà những tên, được cho là cách gọi khác của Đoan Môn, đó cũng chỉ có thể tìm thấy trong các sử sách thế kỷ XVII trở về sau, còn bộ sử có niên đại sớm hơn là Đại Việt sử lượclại hoàn toàn không chép đến. Trong sách sử Trung Quốc thời Nguyên thì ghi chép về thành Thăng Long hết sức sơ sài và lộn xộn, và những mô tả về một “cửa Minh Dương” (tức Dương Minh môn), với hai cửa nách tả, hữu Nhật Tân và Vân Hội, thì chưa đủ sáng rõ để kết luận đó chính là Đoan Môn của Cấm thành Thăng Long (5), đặc biệt khi ta biết từ năm 1203 trở đi, một hạng mục bên tả quần thể cung điện phía tây Cấm thành có tên là điện Dương Minh? (6).
Phải sang đến thời Lê sơ, tên gọi chính xác “Đoan Môn” mới xuất hiện trong chính sử Đại Việt. Đó là sự kiện năm 1472, khi vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) định triều nghi hộ vệ, theo đó: “Các tước sĩ hàng ngày vào chầu phải đứng sắp hàng trước ở hai bên đông tây ngoài của Đoan Môn; những ngày sóc vọng phải đến đợi ở ngoài của Văn Minh, Sùng Vũ, sau ba hồi trống thì tiến vào Đan Trì dàn bay nghi trượng, ban thứ chỉnh tề. Người nào cố ý vi phạm, làm mất hàng ngũ, sau ba hồi trống vẫn chưa chỉnh tề thì các vệ Cẩm Y và Kim Ngô bắt giữ xin trị tội” (7). Tuy nhiên, qua Công dư tiệp kýcủa Vũ Phương Đề (thế kỷ XVIII) ta biết, vào niên hiệu Quang Thuận (1460 - 1469), Lê Thánh Tông đã cho xây lại Đoan Môn cùng hai cửa Nam và Đông của Hoàng thành. Sách chép: “Bấy giờ các cửa Đoan Môn, Đại Hưng, Đông Hoa ở trong thành xây từ đời Lý, lâu ngày đã đổ nát. Vua Thánh Tông sai chữa lại. Ông [chỉ Thượng thư Vũ Hữu] đo chiều cao và chiều rộng của các cửa và tính số gạch đem trình vua. Vua sai thợ y số làm gạch và đem xây cửa thì vừa đủ, không sai một tấc. Vua thưởng cho ông 100 mẫu ruộng để biểu dương” (8).
Việc triều Lê sơ cho xây lại Đoan Môn trên nền cũ từ thời Lý - Trần đã đổ nát không chỉ được thư tịch giữa thế kỷ XVIII ghi chép, mà những kết quả nghiên cứu khảo cổ học cuối thập kỷ 1990 cũng xác nhận điều này. Cuộc khai quật di thích Đoan Môn năm 1999, cho thấy toàn bộ Đoan Môn thời Trần đã bị san lấp một lớp đất sét dày trung bình 0,2m; sau đó, ở trên có một lớp đất trung bình dày 0,7m phủ lên; và cuối cùng là một Đoan Môn thời Hậu Lê được xây dựng, sửa chữa nhiều lần nhưng mặt nền gạch về cơ bản là mặt bằng chuẩn được bắt đầu từ thời Lê sơ, và tiếp tục duy trì trong suốt thời Lê trung hưng và tiếp tục cho đến tận thời Nguyễn. Đặc biệt, các nhà khảo cổ học nhận định, chỉ đến thời Lê thì sự mở rộng Đoan Môn mới thật rõ ràng, nền Đoan Môn lát lan rộng về phía đông, và hẳn có một cấu trúc quy mô, phức tạp (9).
Có thể nói, việc vua Lê Thánh Tông cho tái xây dựng Đoan Môn là đã rõ, và không phải ngẫu nhiên, cũng như đây không phải là đợt xây sửa đơn lẻ. Trong 38 năm trị vì đất nước của mình, Lê Thánh Tông đã có nhiều đóng góp lớn mang tính cải cách đối với nền hành chính, chính trị, pháp luật, quân sự, kinh tế, văn hóa, giáo dục - khoa cử của quốc gia Đại Việt, trong đó có cả vấn đề triều nghi và kiến thiết thành Thăng Long. Không chỉ cho xây dựng, mở mang Đoan Môn khang trang, to đẹp và là nền móng trong suốt thời Lê - Nguyễn trở về sau, Lê Thánh Tông cũng là vị hoàng đế đầu tiên, theo ghi chép trong chính sử, đưa ra quy định tiến triều dành cho vương thân, quan lại gắn liền với Đoan Môn cùng các cửa Nam của Cấm thành và Hoàng thành, lần lượt là Chu Tước, Đông - Tây Trường An và Đại Hưng.
Những xây dựng, sửa chữa nội vi Cấm thành và Hoàng thành Thăng Long thời Lê Thánh Tông thể hiện hai nguyên tắc: thứ nhất, đảm bảo sự phân cấp/phân biệt nội ngoại nghiêm cẩn giữa các vòng thành, đặc biệt cẩn mật là Hoàng thành và nhất là không gian Cấm; thứ hai, củng cố vị thế quan trọng của các lớp cửa Nam Cấm thành và Hoàng thành, trong đó có Đoan Môn. Từ nửa sau thế kỷ XV trở đi, mọi hoạt động xuất nhập thành Cấm, đặc biệt của quan quân, được quy về một mối.
Cũng dưới thời Lý - Trần, ta thấy kinh thành Thăng Long trải qua một số đợt xây sửa lớn, trong đó phải kể đến hai đợt xây dựng căn bản là vào các năm 1010 và 1029 - 1030. Năm 1010, ngay sau khi định đô, Lý Công Uẩn cho xây điện Càn Nguyên (Triều Nguyên) làm chỗ coi chầu, bên trái dựng điện Tập Hiền, bên phải dựng điện Giảng Vũ, bên trái mở cửa Phi Long, bên phải mở cửa Đan Phượng, chính nam dựng điện Cao Minh (Cao Điện); đều có thềm gọi là Long Trì, trong thềm rồng có hành lang dẫn ra xung quanh bốn phía; sau điện Càn Nguyên dựng hai điện Long An, Long Thụy, bên trái xây điện Quang Nhật, bên phải xây điện Nguyệt Minh, đằng sau xây cung Thúy Hoa; Bốn phía thành (Hoàng thành) mở 4 cửa; phía đông là Tường Phù; phía tây là Quảng Phúc; phía nam là Đại Hưng; phía bắc là Diệu Đức. Trong thành xây Tinh Lâu Ngũ Phượng (lầu Ngũ Phượng Tinh) (10). Năm 1029, vua Lý Thái Tông cho dựng lại điện Thiên An trên nền cũ điện Càn Nguyên, bên trái xây điện Tuyên Đức, bên phải xây điện Diên Phúc, thềm trước điện gọi là Long Trì; phía đông thềm rộng đặt điện Quảng Vũ, đối nhau tả hữu hai bên Long Trì là Chung lâu (lầu chuông) để nghe việc oan khuất của dân, bốn xung quanh thềm rồng đều có hành lang để tụ họp các quan và sáu quân túc vệ; Đằng trước đặt điện Phụng Thiên, ở trên xây lầu Chính Dương làm nơi xem giờ; phía sau làm xây điện Trường Xuân, ở trên xây gác Long Đồ (Long Các); Bên ngoài đắp một lần thành bao quanh gọi là Long Thành (11). Hai đợt xây dựng này đã được sơ đồ hóa trong các nghiên cứu gần đây, đặc biệt rõ nhất là sơ đồ của Giáo sư Phan Huy Lê, công bố năm 2008 (12). Qua ghi chép thư tịch và mô phỏng sơ đồ, ta thấy không hề có sự xuất hiện của Đoan Môn về phía nam Long Trì, mà thay vào đó là điện Cao Minh (năm 1010) và điện Phụng Thiên cùng lầu Chính Dương (năm 1029). Hay nói cách khác, trong các thế kỷ XI-XIV, có vẻ như Đoan Môn, nếu có, cũng chưa thực sự hiện diện trong một kết cấu tổng thể cùng với điện Càn Nguyên - Thiên An và Long Trì?
Hơn thế nữa, trong công trình địa lý lịch sử Hà Nội, biên soạn vào nửa sau thế kỷ XIX, Dương Bá Cung đã cho biết rằng: “Lầu Ngũ Môn: Ở Vọng Cung, chính giữa có đề hai chữ “Đoan Môn”, đó là lầu Ngũ Phượng Tinh của triều Lý. Bên ngoài là lầu Tam Môn, thể chế cũng tương tự. (Năm Sùng Hưng [Đại Bảo] thứ 5 [1053] có rồng vàng xuất hiện ở điện Đoan Minh. Đầu đời Quang Thuận cũng gọi là cửa Đoan Minh, về sau mới gọi là Đoan Môn) (13). Qua khảo cứu của Dương Bá Cung, ta thấy hai điểm quan trọng: thứ nhất, tên gọi “Đoan Môn” là có từ thời Lê sơ, cụ thể là vào niên hiệu Quang Thuận (1460 - 1469) triều Lê Thánh Tông, đúng như nghi vấn của chúng tôi ở bên trên; và thứ hai, “Đoan Môn” thời Lý chính là một cái lầu xem sao, hay lầu Ngũ Phượng Tinh, mà Tinh Lâu này ta đã biết là được xây dựng ngay từ năm 1010, trong đợt kiến thiết Thăng Long buổi đầu định đô của vua Lý Thái Tổ. Các bộ chính sử hầu hết đều có chép việc công trình này, Đại Việt sử lượcgọi là “lầu Ngũ Phượng Tinh”; Toàn thư chép là “Tinh lâu Ngũ Phượng”; Tiền biên chép “lầu Ngũ Phượng”; còn với Cương mục thì không thấy có công trình này trong quần thể cung điện năm 1010 (14). Cũng phải nói thêm rằng, Hà Nội địa dưlà tài liệu cung cấp cho chúng ta khá nhiều thông tin quan trọng mà không thấy có trong các bộ địa lý lịch sử khác. Như việc Lê Thánh Tông dời Quán Chân Vũ ra ngoài Cung thành năm 1474; việc Chu Tước chính là tên gọi khác của Tam Môn của Cấm thành thời Hậu Lê; hay việc các vua Lê, Nguyễn nhận sắc phong của thiên triều tại Thăng Long, mà chỉ qua ghi chép của Dương Bá Cung, ta mới đoán định được cửa Chu Tước thời Nguyễn là cửa Đông Nam thành Hà Nội (15). Và như vậy thì ở lớp văn hóa Lý - Trần, phía dưới của Đoan Môn thời Hậu Lê cũng có một công trình kiến trúc ở đúng vị trí đó, nhưng mang một chức năng khác hẳn?
Nói tóm lại, theo chính sử thì ta thấy tên “Đoan Môn” chỉ xuất hiện từ thời Lê sơ, khoảng cuối niên hiệu Quang Thuận, trở đi. Và cho đến thời điểm hiện tại, ta cũng chỉ có thể chắc chắn về vai trò và chức năng của Đoan Môn từ triều Lê Thánh Tông trở về sau. Còn công trình thời Lý - Trần ở vị trí đó được gọi là gì, có công năng ra sao, thì vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ đáp án.
Tuy nghi vấn vậy, nhưng chúng ta không thể phủ nhận được vai trò vật chuẩn của Đoan Môn để xác định vị trí, phạm vi của Cấm thành, cũng như không thể phủ nhận sự tồn tại của trục Kính Thiên - Long/Đan Trì - Đoan Môn của trung tâm thành Thăng Long thế kỷ XI - XVIII (mà như có học giả đến gần đây vẫn còn phủ định) (16).Cho dù bị mất vai trò chính diện trong thời gian nhất định, điện Càn Nguyên - Thiên An - Kính Thiên vẫn tọa lạc trên đỉnh núi Nùng từ thế kỷ XI và đến nay vẫn còn vết tích; cho dù chức năng có thay đổi như thế nào chăng nữa, thư tịch và các chứng tích khảo cổ đều khẳng định Đoan Môn vẫn cố định vị trí trong suốt một thiên niên kỷ. Khảo cổ học Đoan Môn cho thấy rõ trục trung tâm của thành Thăng Long xưa trong suốt thời Lý - Trần - Lê; tuy nhiên, ý kiến gần đây của một số chuyên gia Nhật Bản, cho rằng vết tích đường viền hoa chanh mang đặc trưng thời Trần phía bắc Đoan Môn có thể là di tích một đoạn tường, chứ không phải là đường đi tiến thẳng về điện Thiên An (17), cũng rất đáng lưu tâm, đặc biệt khi ta còn đang băn khoăn về cái gọi là “Đoan Môn thời Lý - Trần”. Và như thế, mọi kết luận vẫn còn đang nằm ở phía trước, chờ đợi một đợt khai quật mở rộng và những khám phá của các nhà sử học, khảo cổ học trong tương lai.
CHÚ THÍCH:
(1) Hà Nội sơn xuyên phong vực,và Lê Chất: Bắc Thành địa dư chí lục,bản dịch, trong Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Văn Nguyên (cb.), Địa chí Thăng Long - Hà Nội trong thư tịch Hán Nôm,Nxb Thế giới, Hà Nội, 2007, tr.183, 479; Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí,bản dịch, Tập III, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1971, tr.165-166.
(2) Nguyễn Công Bật, Đại Việt quốc đương gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi,bản đánh máy, phiên âm và dịch nghĩa, trong Viện Văn học, Thơ văn Lý - Trần,Tập I, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977, tr.390, 397, 404.
(3) Việt sử lược,bản dịch của Trần Quốc Vượng, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1960; Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư,bản dịch, Tập I-II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993; Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục,bản dịch, Tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007; Ngô Sỹ Liên (san bổ), Quốc sử toản yếu,bản dịch, Nxb. Thuận Hóa & Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Huế - Hà Nội, 2004; Ngô Thì Sỹ, Đại Việt sử ký tiền biên,bản dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997; Ngô Thời Sĩ: Việt sử tiêu án,bản dịch, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2001; Đặng Xuân Bảng, Việt sử cương mục tiết yếu,bản dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.
(4) Toàn thư,bản dịch, Tập I, Sđd, tr.269; Tập II, Sđd, tr.47; Tiền biên, bản dịch, Sđd, tr.230.
(5) Thiên nam hành ký(1289), Nguyên sử,dẫn theo Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán (1975): Hà Nội nghìn xưa,Nxb Hà Nội, Hà Nội, 2004, tr.244-245; Phạm Hân (1990), Tìm lại dấu vết thành Thăng Long,Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003, tr.87.
(6) Việt sử lược,bản dịch, Sđd, tr.165-166.
(7) Toàn thư,bản dịch, Tập II, Sđd, tr.460.
(8) Vũ Phương Đề (1755), Công dư tiệp ký,bản dịch, Nxb Văn học, Hà Nội, 2001, tr.19.
(9) Tống Trung Tín và các tác giả: Khai quật địa điểm Đoan Môn(Hà Nội) năm 1999, Khảo cổ học, số 3, 2000, tr.28, 30.
(10) Việt sử lược,bản dịch, Sđd, tr.70-71; Toàn thư,bản dịch, Tập I, Sđd, tr.241.
(11) Việt sử lược,bản dịch, Sđd, tr.78-79; Toàn thư,bản dịch, Tập I, Sđd, tr.254.
(12) Phan Huy Lê, Vị trí và phạm vi của Cấm thành Thăng Long qua các thời kỳ lịch sử,Tham luận tại Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ III: Việt Nam Hội nhập và Phát triển,Hà Nội, ngày 4-7 tháng 12 năm 2008, sơ đồ 1, 2.
(13) Dương Bá Cung, Hà Nội địa dư,bản dịch, trong Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Văn Nguyên (cb.), Địa chí Thăng Long - Hà Nộitrong thư tịch Hán Nôm, Sđd, tr.51.
(14) Việt sử lược,bản dịch, Sđd, tr.70-71; Toàn thư,bản dịch, Tập I, Sđd, tr.241; Tiền biên,bản dịch, Sđd, tr.194-195; Cương mục,bản dịch, Sđd, tr.269-270.
(15) Dương Bá Cung, Hà Nội địa dư,bản dịch, Sđd, tr.52, 78.
(16) Bùi Thiết, Đối thoại Thăng Long - Hà Nội,Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2009, tr.115-187, 218-220.
(17) Dẫn theo Phan Huy Lê: Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội Di sản văn hóa dân tộc và Giá trị có ý nghĩa toàn cầu,trong Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội: Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “1000 năm Vương triều Lý và Kinh đô Thăng Long”, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2009, tr.137.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.