Di sản văn hoá học và nhân loại học văn hoá ở Trung Hoa
Phạm vi của nhân loại học văn hoá là rất rộng, vì văn hoá thường được hiểu theo một nghĩa rộng. Bên cạnh các văn hoá vật thể như các di tích và các cổ vật v.v… các nhà nhân loại học văn hoá coi các văn hoá tinh thần, chẳng hạn như các công nghệ sản xuất, thói quen đời sống, các nghi lễ thiêng liêng, ngôn ngữ, các lễ hội, nghệ thuật dân gian và các thứ tương tự gắn bó chặt chẽ với đời sống hàng ngày của con người cũng đều là những kho báu văn hoá và các di sản tinh thần xứng đáng được bảo vệ và bảo tồn.
Về ý nghĩa, “ di sản văn hoá” và “ di tích văn hoá” khác nhau về cả khái niệm lẫn mức độ rộng, hẹp, do đó không thể đặt chúng ngang hàng với nhau. Di tích văn hoá chỉ được xem như một phần quan trọng của di sản văn hoá.
Bảo vệ di sản văn hoá Trung Hoa
Ngày nay, sự hiểu biết về di sản văn hoá của người dân Trung Hoa đã tăng lên nhờ cả hai nhân tố tích cực và tiêu cực. Trong số các nhân tố tích cực, các dự án phát triển vùng phạm vi lớn tạo nên những tiến bộ về kinh tế và xã hội mau chóng ở Trung Quốc đã dẫn tới phát hiện ra được số lượng lớn các di tích văn hoá có giá trị cao về lịch sử, văn hoá, nghệ thuật và khoa học. Quan trọng hơn, những di sản văn hoá đáp ứng sức hấp dẫn lớn khách du lịch, giúp cho sự phát triển kinh tế ở nhiều vùng, đặc biệt là ở những vùng nghèo của Trung Quốc.
Trong số các nhân tố tiêu cực, xu hướng đô thị hoá và hiện đại hoá đang bao trùm Trung Quốc không chỉ đã tạo nên sự tàn phá di sản văn hoá vật thể, mà còn gạt ra ngoài lề hoặc thậm chí bỏ đi văn học và nghệ thuật dân gian truyền thống. Sự trộm cắp và buôn lậu các di vật lịch sử đang hoành hành, bất chấp pháp luật ngăn cấm.
Do toàn cầu hoá và việc phát triển miền Tây Trung Quốc v..v., việc bảo vệ di sản văn hoá ngày càng trở nên cấp bách. Đất tự nhiên đang dần dần giảm đi là kết quả của sự khai thác đất đai ồ ạt và sự tiến triển của đô thị hoá đã đặt ra những đe doạ mới đối với các di tích văn hoá ở trên và ngay dưới lòng đất. Các nghề thủ công và văn hoá dân gian đang suy giảm nhanh chóng do đang đối mặt trước những biến đổi bi thảm theo các lối sống cũng như với toàn cầu hoá xã hội.
Năm 2000, UNESCO bắt đầu thiết lập một Bản Danh sách Di sản văn hoá phi vật thể tiêu biểu. Trung Quốc được xếp vào hàng thứ 3 trong bản danh sách di sản thiên nhiên và văn hoá thế giới của UNESCO.
Để bảo vệ di sản văn hoá Trung Quốc, Se Yin, Nhà Dân tộc học của Viện Dân tộc học thuộc Viện Hàn lâm KHXH Trung Quốc, đề xuất:
- Thành lập các Uỷ ban về nghiên cứu và chuyên môn để có thể đánh giá và ước lượng chúng. Trong đó bao gồm các chuyên gia về nhân loại học văn hoá và truyền thống dân gian, các chuyên gia về di tích văn hoá và các nhà khảo cổ học. Cần thiết cấp bách là thiết lập “Danh sách di sản văn hoá dân gian Trung Quốc” và “Dự án bảo lưu di sản văn hoá dân gian Trung Quốc”.
- Thành lập một ban đặc biệt phụ trách việc bảo vệ di sản văn hoá.
- Kiên trì nguyên tắc “thứ nhất bảo vệ”, ra sức giảm bớt và tránh huỷ hoại các di sản văn hoá và thiên nhiên trong quá trình phát triển ở tương lai.
- Xây dựng các viện bảo tàng và các trung tâm dữ liệu để bảo tồn các di tích đáng tin cậy và các di sản đã có rải rác ở nhiều nơi.
- Cấp bách ban bố các đạo luật và quy chế để hạn chế thiệt hại trong khi phát triển, sử dụng và bảo vệ di sản dân gian và tộc người.
- Ghi chép chính xác và bảo tồn di sản bằng phương pháp tiện hiện đại.
Bảo vệ di sản đời sống nhân loại
Di sản đời sống nhân loại bao gồm không chỉ giá trị các di sản phi vật thể của các di tích văn hoá có tầm cao và nhìn thấy rõ như các công cụ dân gian, các đồ chơi địa phương và các nghề thủ công dân gian mà sản phẩm của nó vẫn đang được sử dụng, mà còn cả di sản bằng lời như các huyền thoại, các truyện cổ tích, các thiên sử thi, và các ba lat, di sản hành vi như múa dân gian, các lễ nghi và các trò chơi địa phương. Các ngôn ngữ, với tư cách là các phạm trù mang và hàm chứa quan trọng di sản bằng lời cũng cần được bảo vệ như là “di sản đời sống nhân loại”. Những cố gắng đặc biệt cần được thực thi để bảo đảm sự tồn tại của các ngôn ngữ đang có nguy cơ biến mất.
Dân tộc học với tư cách là một phương pháp truyền thống của nhân loại học văn hoá đã có những đóng góp lớn lao trong việc ghi chép, bảo tồn và bảo vệ di sản đời sống nhân loại, đặc biệt trong việc ghi chép các lối sống và văn hoá tinh thần của những cộng đồng tộc người không có ngôn ngữ viết.
Nhân loại học văn hoá đã được xây dựng dựa vào dân tộc học và các ngành chính của nó. Dân tộc học chú trọng các nghiên cứu, miêu tả về văn hoá các cộng đồng tộc người khác nhau, và còn quan tâm ngay cả đến các khía cạnh khác nhau của một văn hoá, do đó đôi khi nó được xem như “dân tộc học miêu tả”.
Thêm vào nguyên bản, gần đây dân tộc học thực hiện các phương tiện là các máy ghi âm và nghe nhìn đã góp phần rất lớn vào việc ghi lại, bảo tồn và bảo vệ “di sản đời sống nhân loại”. Trong những năm 1950, Trung Quốc tiến hành nghiên cứu điều tra trên phạm vi lớn các vấn đề về xã hội và lịch sử các dân tộc thiểu số. Các nhà khoa học thực hiện nghiên cứu ngoài trời ở Vân Nam đã phát hiện ra “hiện tượng văn hoá của các xã hội nguyên thuỷ” tồn tại ở Drung, Nuzu, Vazu, Jingpo, Lisu và một số dân tộc khác. Đồng thời họ thực hiện việc ghi chép đúng lúc. Hơn 20 tài liệu đặc biệt về các dân tộc thiểu số chỉ riêng ở Vân Nam đã được thực hiện trước năm 1965. Đây là những tư liệu rất quý. Các phim mà ý tưởng học thuật được phản ánh nhờ vào sự tham gia của các nhà dân tộc học và nhân loại học đều đã dựa vào “các tài liệu khoa học về các xã hội và lịch sử của các dân tộc thiểu số”. Cái gì đó hiện nay đã miêu tả về các cách sống đã biến mất thì đều trở nên có giá trị lâu dài hơn. Các phim dân tộc học ngày nay không chỉ mô tả những nét đặc biệt của các bộ lạc và các dân tộc thiểu số xa xăm mà còn cả với mỗi khía cạnh của văn hoá xã hội.
Các cách bảo vệ và bảo tồn di sản đời sống dường như phức tạp hơn là bảo vệ và bảo tồn cái “cổ xưa”. Việc hình thành các bảo tàng sinh thái đang dần dần chiếm được sự ủng hộ của quốc tế. Các bảo tàng sinh thái đơn giản có nghĩa là “cộng đồng hoá” các bảo tàng. Nó nổi bật lên như một ý tưởng mới ở Pháp trong những năm 1970 do Georges Henri Rivière và Hugus De Varlue, hai nhân vật tích cực trong giới bảo tàng Pháp.
Không giống các bảo tàng truyền thống, các bảo tàng sinh thái làm cho thích hợp với xu hướng hiện thời để bảo vệ các môi trường sinh thái của loài người. Chúng phù hợp với sự kêu gọi mạnh mẽ là trả lại các quyền đối với di sản văn hoá, quyền giải thích di sản đối với cội nguồn và người bản xứ, phản ánh cái khao khát đối với sự phát triển hài hoà và có thể minh chứng được. Dựa vào sự phát triển hài hoà và có thể minh chứng được. Dựa vào sự phát triển của nó, lý luận các bảo tàng sinh thái đã lan nhanh tới nhiều quốc gia và nhiều khu vực châu Âu, Mỹ La Tinh và Bắc Mỹ.
Hiện nay đã có hơn 300 bảo tàng sinh thái được xây dựng khắp thế giới. Trung Quốc thành lập bảo tàng sinh thái đầu tiên ở huyện Suo ga trong đặc khu Liuzhi, thành phố Liupanshui thuộc tỉnh Quý Châu. Nơi ấy có các dân tộc thiểu số Miao, Yi và Hui sinh sống. Từ sau đó, các bảo tàng sinh thái là một cách bảo vệ các văn hoá tộc người có hiệu quả đã tăng lên về số lượng. 15 bản làng và thị xã dân tộc thiểu số khác, bao gồm 4 bảo tàng sinh thái đã được bảo vệ và phát triển với sự quan tâm đặc biệt. Thực tế các bản làng và thị xã là những nơi và những kho báu văn hoá tộc người.
Ngoài ra, để chiến dịch “phát triển miền Tây” Trung Quốc tiếp diễn thì việc bảo vệ và xây dựng các bản làng và thị xã các dân tộc thiểu số sẽ góp phần phát triển kinh tế có thể minh chứng được ở tỉnh Quý Châu.
Mỗi dân tộc có những cảm xúc phức tạp trong việc giải quyết văn hoá truyền thống và di sản của nó. Bởi vậy nên phát triển các phương tiện mới bảo tồn và kết hợp chúng với các phương pháp truyền thống, duy trì việc điều chỉnh với nâng cao các phương tiện phù hợp với các điều kiện thực tế. Chỉ tiến hành như thế mới có thể vừa bảo vệ vừa phát triển các di sản văn hoá.
Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số 63, 2/2004, tr 15, 16








