Đề xuất một số giải pháp bảo vệ “sự sống” của con sông ở ĐBSCL
Những nguy cơ đang tác động và tiềm ẩn:
Những thành tựu trên của vùng ĐBSCL chủ yếu là khai thác tài nguyên thiên nhiên và con người chưa được bồi bổ. Người nông dân ở ĐBSCL rất năng động, say mê sản xuất hàng hóa, nhưng tính tự phát ngày càng tăng làm tổn hại đến môi trường sống ngày càng lớn. Nay, nguồn nước sông Mê Kông bị đắp đập qua các nước (tỉnh Vân Nam – Trung Quốc), Thái Lan, Lào, Campuchia, nguồn nước đang sụt giảm, lực lượng dòng chảy của các con sông thấp dần, nước mặn ngày càng nhập sâu vào nội địa. Thực trạng xáo trộng nguồn nước của ĐBSCL cộng với quá trình biến đổi khí hậu, tạo ra nhiều nguy cơ tiềm ẩn đến đời sống của nhân trong vùng cả trước mắt và lâu dài, đang đe dọa sự phát triển bền vững.
Nguy cơ thứ nhất,theo Trung tâm Bảo tồn và phát triển tài nguyên nước Việt Nam, Trung Quốc đã đắp và sẽ đắp 8 con đập nước khổng lồ ở tỉnh Vân Nam. Thái Lan, Lào và Campuchia đã có 23 dự án đập thủy điện và trữ nước tưới nông nghiệp, đã làm cho lượng nước ngọt ở lưu vực ĐBSCL đang theo chiều hướng giảm mạnh.Theo số liệu đo đạc của Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ, lưu lượng nước hiện chỉ còn 28.000 m 3/s, trong khi trước đây là 40.000 m 3/s. Vụ Đông xuân năm 2009 vừa qua, lưu lượng nước trên sông Tiền và sông Hậu chỉ đạt mức 1.600 m 3/s so với nhu cầu 1,5 triệu ha lúa phải là 1.700 m 3/s. Các tỉnh thuộc vùng duyên hải bị ảnh hưởng nghiêm trọng, như: Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Đồng thời, nước mặn ngày càng ngập sâu vào đất liền có nơi đến 70 km, riêng thị xã Vị Thanh (Hậu Giang) nước mặn ngập thị xã 3-4 ngày, dân không có nước ngọt để sử dụng (ngành cấp nước không hay biết, vẫn lấy nước mặn cung cấp).
Dòng chảy đã bị ngăn cắt khúc, môi trường sống của các loài thủy sản cũng bị cắt khúc, không đủ môi trường để sinh sống và sinh sản, nguồn thủy sản ở ĐBSCL suy giảm khá nhanh, có thể không tránh khỏi bị cạn kiệt. Những người nông dân sống nhờ mùa nước nổi ở nhiều tỉnh trong vùng ĐBSCL cho biết nhiều loài cá đã giảm hơn phân nửa, trong đó nguồn cá đồng giảm mạnh (cá lóc, trê, rô…).
Những năm gần đây, sạt lở đất ở ĐBSCL ngày càng phát triển là dòng sông Tiền, sông Hậu và vùng cửa sông ven biển, ở một số tỉnh Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau cả thành phố Cần Thơ. Nhiều nhà khoa học cho rằng có thể do lượng phù sa ở hạ lưu giảm đã gây ra sạt lở để cân bằng phù sa, đang gây ra nhiều khó khăn cho dân cư vùng ven biển và ven bờ sông Tiền, sông Hậu. Đắp đập ngăn lượng nước, ngọt trên thượng nguồn đang gây ra nhiều khó khăn cho sản xuất lương thực ở ĐBSCL, nguy cơ tiềm ẩn cho an ninh lương thực của đất nước.
Nguy cơ thứ hailà do tự phát của nền nông nghiệp hóa và sự lỏng lẻo trong quản lý chất thải nuôi trồng thủy sản, sản xuất công nghiệp và sinh hoạt của vùng. Theo khảo sát và tổng hợp của Chi cục Bảo vệ môi trường khu vực Tây Nam Bộ đưa ra, hiện tại các nguồn ô nhiễm ở ĐBSCL đang phát sinh ở mức báo động: Rác thải sinh hoạt khoảng 780.400 tấn/năm; Nước thải sinh hoạt khoiangr 102 triệu m 3/năm; Nước thải công nghiệp khoảng 47,2 triệu tấn/năm; Chất thải công nghiệp nguy hại là 1.500-2.400 tấn/năm; Rác thải y tế là 2.300-3.800 tấn/năm; Chất thải nuôi trồng thủy sản là 456,6 triệu m 2/năm. Trong đó, lượng phân bón hóa học sử dụng trong nông nghiệp chiếm khoảng 2 triệu tấn/năm. Lượng thuốc bảo vệ thực vật dùng trong nông-lâm-ngư khoảng 400-500.000 tấn/năm. Tất cả các loại chất thải này gần như chưa có xử lý, chủ yếu đưa thẳng ra sông Tiền, sông Hậu gây ra ô nhiễm nguồn nước, tác hại ngày càng lớn đến sản xuất và đời sống, làm cạn dần tài nguyên đa dạng sinh học.
Nguy cơ thứ ba, quá trình biến đổi khí hậu do nhiệt độ tăng làm nước biển dâng, đẩy nước mặn ngày càng lấn dần sâu vào đất liền, có thể tạo ra khả năng ngập mặn, ngập lợ vào các hồ thành phố của ĐBSCL, tác động tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp, đến quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa của vùng (đã xảy ra ở thị xã Vị Thanh tỉnh Hậu Giang).
Theo cảnh báo của các nhà khoa học Việt Nam , trong đó ĐBSCL bị ngập nặng. Theo kịch bản biến đổi khí hậu (được các cơ quan chức năng phát thảo), nếu nước biển dâng lên 1m, sẽ có hơn 1/3 diện tích ĐBSCL bị ngập. Vậy, làm sao để vùng ĐBSCL phát triển bền vững, đó là vấn đề cần được đặt ra.
Hướng giải pháp khắc phục.Qua nhiều chủ trương của Đảng và Nhà nước, tổng hợp lại; ĐBSCL phải được rút ngắn và phát triển bền vững. Đây là một vấn đề khó khăn, có liên quan đến cộng đồng quốc tế. Làm sao Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng có thể thực hiện được.
Giải pháp có tính quyết định là sự thống nhất và nỗ lực của Việt Nam với chính sách đầu tư chiến lược tích cực, trong đó vai trò tự thân của vùng DBSCL cần sự năng động, sáng tạo và có bước đi vững chắc từ bây giờ.
Trước hết là vấn đề nhận thức, cần có nhận định đúng về tiềm ẩn của các nguy cơ tác động sự phát triển bền vững của đất nước và của vùng ĐBSCL. Từ đó có chủ trương và hành động nhất quán của cả nước, của các vùng, trong đó có vùng ĐBSCL về ứng phó với biến đổi khí hậu.
Giải pháp cụ thể cho việc ổn định kinh tế, đảm bảo an sinh dựa vào nguồn nước là phải khai thác, quản lý và sử dụng nguồn nước một cách hiệu quả. Trong đó, quan tâm cải thiện các đất vùng canh tác lúa 3 vụ trong đê bao có ảnh hưởng đến sự ổn định của nguồn nước trong vùng. Thực trạng đê bao khép kín làm 3 vụ lúa ở ĐBSCL đã tác động đến các dòng sông và sự sống. Trong hội thảo “Bảo vệ sự sống của các dòng sông” do Viện sinh thái và đa dạng sinh học tổ chức, PGS Nguyễn Bảo Vệ (trường Đại học Cần Thơ) đã đưa ra những yếu tố ảnh hưởng đến sự ổn định và tính bền vững của sản xuất lúa 3 vụ của vùng; Sâu bệnh phát triển nhiều hơn, do không còn thời gian diệt mầm bệnh trên đất và sâu rày; Đất không còn nhận được phù sa (đê bao khép kín); Ô nhiễm môi trường nặng hơn (nông nghiệp hóa chất); Nguồn thủy sản thiếu môi trường nước để sinh sản và thức ăn để phát triển; Năng suất lúa giảm theo thời gian (đang diễn ra).
Các hạn chế đó nói cho cùng là do nguồn nước, bao đê khép kín để làm lúa 3 vụ ở ĐBSCL, hệ trọng hơn là làm ô nhiễm và xáo trộn thêm dòng chảy của các dòng sông của vùng, đang ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống.
Bổ sung quy hoạch vùng ĐBSCL đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của vùng. Nội dung chủ yếu của quy hoạch tổng thể vùng DDBSCL 1993 là tăng năng suất, tăng sản lượng lúa với nền nông nghiệp hóa chất. Nay cần nghiên cứu bổ sung chuyển sang nền nông nghiệp sinh học hữu cơ, góp phần tạo ra cấu trúc kinh tế mới, trong đó có thích ứng với quá trình biến đổi khí hậu và biến đổi của các dòng sông, đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững.
Trong quy hoạch cần đặc biệt quan tâm tiềm năng kinh tế vùng ven biển, tổ chức lại sản xuất và quản lý,phát triển đời sống nhân dân, bảo vệ và phát triển rừng theo hướng chiến lược phát triển ổn định và bền vững vùng ĐBSCL khi nước biển dâng cao.








