De Monpezat với sự nghiệp khai thác ở Bắc Kỳ
Công ty Pháp khai thác thuộc địa ở Trung - Bắc kỳ được thành lập ngày 14 - 3 - 1913 với số vốn ban đầu là 70.000 Frs. Công ty khai thác được 10.000 tấn than vào đầu những năm 1920 và hơn 20.000 tấn trong những năm 1923 - 1925. Nó bị công ty than Ninh Bình, có số vốn được chia thành 180.000 cổ phần 100 Frs, thâu tóm vào ngày 28 - 7 - 1926. Monpezat đã nhận được một số cổ phần (khoảng 12.000 cổ phần) hùn vốn (Đanolo và Elliès cũng nhận được ngần ấy số cổ phần hùn). Và 4.900 phần của những người sáng lập trong 20.000 (1).
Những biến cố về chính trị và pháp lý không ngăn cản được việc tiếp tục làm ăn, mà cần phải đặt trong bối cảnh thịnh vượng của Đông Dương từ 1922 đến 1927. Monpezat theo đuổi các hoạt động trước đây bằng cách mở rộng chúng, nhất là trong lĩnh vực trồng lúa. Sự phát triển của Công ty vô danh khai thác thuộc địa khá là độc đáo trong những năm 20. Công ty này được thực hiện một phần qua việc mua lại những đồn điền của các nhà di thực đã trở về Pháp, hoặc là do nghỉ hưu hay do bị thất lạc. trong trường hợp thứ nhất, một hiện tượng mang tính chất thế hệ đã tạo thuận lợi cho de Monpezat. Những nhà di thực nông nghiệp đầu tiên ở Bắc kỳ thường là những cựu binh của quân Viễn chinh trong những năm 1885, giải ngũ tại chỗ. Những người này đến tuổi nghỉ hưu giữa những năm 1919 - 1920; phần lớn muốn về Pháp nghỉ hưu. Trong trường hợp thứ hai, Đông Dương đã trở nên thực sự quen thuộc vào thời kỳ Paul Doumer, và do sự tuyên truyền thuộc địa, một vài thanh niên Pháp thử đến đây với tư cách là người di thực. Hoặc chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng như thế hệ đàn anh, hoặc những điều kiện đã trở nên kém thành công hơn đối với những người di thực loại nhỏ. Thế hệ thứ hai này kém thành công hơn thế hệ thứ nhất. Cũng trong trường hợp thứ hai này, de Monpezat đã tìm được cơ hội để tận dụng những chiến lợi phẩm. Vả lại, phần lớn đất đai được mua về trong những năm 1910 - 1920 lại nằm ở đồng bằng Bắc kỳ, trái với những đồn điền đầu tiên lại được phân bố ở những vùng đồi núi. Điều này có ý nghĩa là phần lớn đất đai đã được dành cho việc trồng lúa là loại cây đem lại lợi nhuận ổn định nhờ chế độ phát canh, trái với việc trồng cây lâu năm. Thậm chí ngay cả cuộc khủng hoảng thế giới cũng không ảnh hưởng đến những nguồn lợi nhuận như các đồn điền trồng cao su. Thông thường, chế độ lĩnh canh bị cho là ít tạo thuận lợi cho việc hiện đại hóa, nhưng trong trường hợp trồng lúa ở Bắc kỳ, những cách thức trồng cấy đã quá hoàn chỉnh và người ta tự hỏi những khoản đầu tư như thế nào để có thể tăng sản lượng, trừ việc tiến hành những công trình đê điều và tưới tiêu, ngoài khả năng tài chính của một nhà di thực đơn thuần, dù có giàu đi chăng nữa. trong mọi trường hợp, chúng ta cần ghi nhận ở đây rằng hoạt động của Công ty vô danh Khẩn hoang dường như mang tính chất ăn bám một cách thực sự so với những người nông dân Việt Nam.
Đồn điền chính của de Monpezat và cũng là nơi ông ta cư ngụ là đồn điền Lục Nam, nằm trên ranh giới giữa vùng đồng bằng và trung du và trên đó, ông ta tiến hành chăn nuôi. Có khoảng 100 người Âu cư ngụ ở tỉnh này, so với 200.000 người Việt, 11.000 người Thái (Thổ và Nùng), 2.000 người Mán và hai chục người Hoa. Tỉnh này còn có khoảng 80.000 ha ruộng lúa (trong đó 320 ha thuộc về người Âu), nhưng tỉnh này đặc biệt nổi tiếng nhờ chăn nuôi và buôn bán gỗ (nhất là ở gần Lục Nam). Nhiều nhà trồng trọt và chăn nuôi đến để lập ra một Công ty đua ngựa tại thị xã Phủ Lạng Thương khiêm nhường (Annuaire 1901).
Tháng 12 - 1928, de Monpezat mua đồn điền Soler, gần làng Yên Lập (tỉnh Quảng Yên), ngay giữa đồng bằng. Thế mà miếng đất mới tậu lại ở ngay cạnh đồn điền mà Công ty vô danh Khẩn hoang đã mua được của ông Peyre. Việc mua bán mới được tiến hành trên 1.000 ha để trồng lúa và de Monpezat yêu cầu nhượng cho ông theo hình thức cho không, bởi vì phải tiến hành nhiều công trình đê điều ở đây (AOM GG 46126).
Ở Bắc kỳ, trung tâm hoạt động nông nghiệp của Monpezat nằm ở tỉnh Bắc Giang, cách Hà Nội khoảng 80 km về phía Đông Bắc, xa tuyến đường Lạng Sơn và biên giới Trung Quốc. Tại đây Henri de Monpezat đã mua các nhượng địa tạm thời của các ông Thome và Gayardon de Fenoyl ở Lục Nam. Trong thời gian từ năm 1919 đến 1924, de Monpezat xin nhượng vĩnh viễn những đồn điền tạm thời này mặc dù còn chưa được cắm mốc giới và sơ đồ chính xác theo yêu cầu trong trường hợp này. Vậy mà đây lại là vùng người Việt đã lưu tán do giặc giã, do sự xâm nhập của người Hoa trong những năm chiến tranh chống lại người Pháp. Nhiều vụ tranh chấp đã diễn ra giữa các điền chủ và dân làng, nhất là đối với những phần không được khai thác trên đồn điền. De Monpezat phải thương thảo dài dài với những làng bên cạnh nhưng năm 1922, 22 ha (trên tổng số 4.237 ha) vẫn còn bị tranh chấp. Henri de Monpezat tỏ ra bất lực trong việc cắm mốc giới, chính quyền thì muốn đứng ra giải quyết (người ta không biết liệu rằng đồn điền đó có được nhượng theo hình thức không mất tiền hay không), nhưng cái đó đã bị dân làng ngăn cản (từ 27 - 10 rồi 17 - 11 - 1922), một mặt họ phản đối việc cho rằng những đất đã được cấp nhượng lại là đất công, mặt khác, họ tự trồng cấy trên một khoảng đất đang tranh chấp mà de Monpezat đã không cắm mốc giới.
Hẳn là sự tăng dân số của người Việt có thể nhận thấy trong những năm 1920, cộng với ý thức về sự bất công đã thúc đẩy dân làng đấu tranh mạnh hơn trong những năm 1920. Vả lại, cảm tưởng chung là Chính quyền thuộc địa đã tỏ ra ít tạo thuận lợi cho các nhà di thực hơn những thời kỳ trước mà người ta không được biết liệu rằng sự chặt chẽ mới này có thể được giải thích bằng sức ép tăng lên của dân làng (đông dân, có học hơn), sự gia tăng về số lượng viên chức và sự đào tạo tốt hơn của họ hay là sự cắt đứt của một quy ước ngầm mà trước năm 1900 đã thống nhất các nhà càm quyền với các nhà di thực trong một kiểu khai thác những thành quả thứ yếu của công cuộc chinh phục.
Đồn điền Lục Nam là nơi Monpezat thực hiện chăn nuôi, nhất là chăn nuôi ngựa và cho ngựa chạy thi tại trường đua Hà Nội, nơi sau này mang tên ông.
Hai đồn điền hợp nhất có quy mô rất lớn, vượt quá giới hạn cho phép.
Trái lại, trên lĩnh vực kinh tế, thành công thật chắc chắn. Năm 1929, de Monpezat đã cho xây dựng một tòa nhà ở 80 Đại lộ Carnot, nơi ông dọn đến ở ít lâu trước khi qua đời. Theo hướng tây - bắc/ đông - nam, song song với đại lộ Quán Thánh, phố Carnot (nay là phố Phan Đình Phùng, tên một anh hùng người Việt đã tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở Bắc kỳ), chạy dọc theo phía Bắc thành, Trường trung học và vườn bách thảo. Như vậy, de Monpezat ở gần sát Phủ Toàn quyền.
Nói chung, những hoạt động nông nghiệp của de Monpezat đã được khẳng định và được mở rộng, những cái đó cũng không loại trừ việc ông ta đã bán đồn điền (bảng kê Hồ sơ Phủ Thống sứ Bắc kỳ - RST số 42402 chỉ ra rằng de Monpezat đã bán một điền đồn ở tỉnh Thái Nguyên trước năm 1928, có thể đó là đồn điền cũ de Cammailles. Đồn điền này, được cấp nhượng năm 1898, có diện tích 10.000 ha), điều này gợi ra một chiếc lược tái cơ cấu về địa lý và kinh tế.
Thật vật, de Monpezat vẫn tiếp tục trong việc chăn nuôi, nhất là ngựa, ông cho ngựa tập chạy, đôi khi cho con trai mình cưỡi, trên trường đua Hà Nội mà sau này mang tên của ông.
Trong những năm 20 của thế kỷ 20, Henri de Monpezat tiếp tục được hưởng sự giúp đỡ của chính quyền. Ví dụ như ngựa của Monpezat được nhốt tại trường đua Hà Nội trong nhiều tuần năm 1928 (AOM RST 42176) và nhân viên phải kêu ca về điều đó thì mới giải phóng được chỗ nhốt. Đã thế, chính quyền còn cung cấp cho ông giống ngựa đực để phối giống (AOM GG 15138). Cuối cùng ông cũng cải tiến được giống ngựa, đặc biệt có được những con ngựa lớn hơn, có thể sử dụng được nhất là trong quân đội. Mục tiêu có thể là lỗi thời trước sự phát triển của xe hơi, nhưng mạng lưới đường bộ của Đông Dương còn chưa được sửa sang trong những năm 1920, mặc dù tốt hơn đường bộ của phần lớn các thuộc địa châu Phi. Chính quyền còn phát tiền thưởng cho những điền chủ chấp nhận lấy giống từ những con đực của Sở Canh nông. Về nguyên tắc, việc phối giống phải được tiến hành ở những tàu ngựa của chính quyền, một mặt để cho tất cả những người nuôi (kể cả người Việt) có thể vào được chỗ đó; mặt khác để đảm bảo sức khỏe cho những con ngựa giống đực; cuối cùng để kiểm tra việc thực hành phối giống. Ở tỉnh Bắc Giang, chính quyền nuôi năm con giống đã khá già để phối giống, trong đó có hai con ở Lục Nam (một con lai và một con thuần Việt). Vậy năm 1917, de Monpezat đạt được việc là cả hai con giống đó đều đã được gửi lên đồn điền của ông (cũng không phải đây là lần đầu tiên de Monpezat nhận được ân huệ này) và đã giữ chúng trong gần một năm. Thông thường, ông đã lĩnh những khoản tiền thưởng tối đa được dự kiến cho việc phối giống trong khi chính quyền lại không thể kiểm tra được xem việc đó có thực hay không. Tuy nhiên, lần này các nhân viên đã phàn nàn vì ông ta đã giữ giống ngựa quá lâu (4 tháng là đủ), de Monpezat đòi bồi thường cho những chi phí để nuôi chúng trong tháng 8 - 1918. Hình như lần này ông ta đã chẳng nhận được gì, nhưng hồ sơ cho thấy de Monpezat đã gây sức ép lên phủ Toàn quyền, phủ Thống sứ và các cơ quan thú y mà người đứng đầu là Douarche đã buộc phải thanh minh. Vị điền chủ này sẽ còn kéo dài vụ việc trong hơn một năm, gom toàn những điều tế nhị (rằng Chính quyền không cấp đủ giống ngựa cho ông ta, rằng những điền chủ khác đã hưởng mất đặc ân của ông…) cho đến tận tháng 7 - 1919.
Chú thích:
- Annuaire économique de I’Indochine, 1926 - 1927, Hà Nội, IDEO, 2 tập.