Dê - con bò của người nghèo
1. Con bò của người nghèo là vật nuôi nào?
Đó chính là con Dê.Mahatma Gandi, lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Ấn độ đã nói: "Con Dê là con Bò của người nghèo". Còn Recook lại nói: "Con Dê là ngân hàng cho người nghèo". Chủ tịch Hội nuôi Dê thế giới RM.Acharay thì lại khẳng định: "Dê là cơ quan bảo hiểm đáng tin cậy của người nghèo".
Nói như vậy vì con Dê có những khía cạnh tuyệt vời sau đây: Uống nước lã và ăn hàng trăm thứ cây cỏ cho ta sữa, thịt, lông, da. Chịu đựng được ở những vùng đất khô cằn, khí hậu khắc nghiệt, nóng như "rang" của vùng Ninh Thuận, Bình Thuận, hay rét như "cắt thịt" vùng Mèo Vạc (Hà Giang). Trèo trên vách đá chênh vênh để kiếm lá cây ngọn cỏ để cho ta thịt, sữa. Dê ít bệnh tật, đặc biệt là dê không bị bệnh lao. Dê sinh sản nhanh hơn trâu bò. Người ta chứng minh rằng: Một con Dê cái sinh ra sau 4 năm đẻ được 23 Dê với tổng khối lượng thịt là 350kg và 200 kg sữa. Phân của Dê là thức ăn nuôi giun Quế làm thức ăn cho gia cầm rất tốt. Phân Dê đã qua nuôi giun Quế là nguồn phân bón rất tốt cho rau sạch và hoa cây cảnh. Vốn bỏ ra thu hồi rất nhanh, vốn chi phí ban đầu để nuôi Dê chỉ bằng 1/10 nuôi một con bò. Thức ăn nuôi 10 con Dê cũng chỉ bằng 1 con Bò. Nếu chỉ tính chỉ số sản lượng sữa trên 100kg. Thể trọng thì Dê hơn hẳn Bò. Người ta đã so sánh giữa Bò Bos indicus với Dê lai (Dê Angol x Dê địa phương) thì chỉ số tương ứng là 3,8 và 7,1. Tại Ba Vì, chúng tôi đã so sánh Dê sữa Barbary, thì Bò Ba Vì là 2,1 còn dê sữa Barbary là 3,41. Khi bảo quản sữa Dê ở ngăn đá, đá tan, đun sữa sôi, sữa không vón cục. Còn sữa bò thì ngược lại. Nếu sử dụng các sản phẩm từ Dê (thịt, sữa, xương…) thì thật là tuyệt vời. Nếu ăn tái Dê với tương gừng, ngọc dương tần thuốc Bắc, cao Dê toàn tính hay cao xương Dê (cao sơn dương), chúng ta có sức mạnh phi thường và đích thực là phái mày râu, đúng như câu thơ nổi tiếng của Nguyễn Công Trứ. Khi ông ở tuổi 73 mà sức sống vẫn như tuổi 23.
"Ngũ thập niên tiền nhị thập tam"
Và cũng không quên bài thơ tình của Vũ Hoàng Chương:
… "Lớp lớp tình ta đã sóng xiêu
Mắt khanh càng đắm đuối bao nhiêu
Lặng nhìn nhau trọn đêm gần gũi
Không nói mà tâm sự rất nhiều"….
(Nhà xuất bản Đồng Nai - 1996)
Nhiều gia đình nuôi Dê đã xóa được đói, giảm được nghèo và giầu lên nhanh chóng. Thí dụ ông Lý Văn Điền (Hà Giang), ông Lý Hồng Tài (Bến Tre), ông Đỗ Bá Định (Đà Nẵng) và rất nhiều gia đình nuôi Dê đã khá khẩm lên ở khắp 3 miền Bắc - Trung - Nam.
Với những lợi ích thiết thực do nghề nuôi Dê mang lại, nên nhiều nước trên thế giới phát triển nuôi Dê, nhất là những nước đang phát triển. Theo tài liệu của tổ chức Nông lương thế giới (FAO) 2004 cho biết: Năm 2003 sản lượng thịt các loại của toàn thế giới đạt 249.851.019 tấn, trong đó số lượng thịt Dê đạt 4.091.190 tấn. Khu vực các nước đang phát triển là nơi sản xuất nhiều thịt Dê nhất (3.903.357 tấn) chiếm 95,4% tổng sản lượng thịt. Những nước sản xuất nhiều thịt Dê nhất là các nước châu Á (3.003.742 tấn chiếm 73,42% tổng sản lượng). Nước cung cấp nhiều thịt Dê nhất là Trung Quốc (1.519.081 tấn), Ấn Độ (437.000 tấn), Pakistan(373.000 tấn), Việt Nam đóng góp 6.000 tấn thịt Dê.
Cũng theo FAO - 2004, sản lượng thịt của toàn thế giới đạt 600.978.420 tấn, trong đó sữa Dê là 11.816.315 tấn. Các nước Châu Á đã sản xuất 6.291.364 tấn. Ấn Độ là nước sản xuất nhiều sữa Dê nhất (2.610.000 tấn), Bangladesh(1.312.000 tấn), Pakistan (640.000 tấn), Trung Quốc (242.000 tấn). Ở Việt Nam hiện đang sản xuất sữa Dê tập trung ở Ba Vì (Hà Nội) và một số tỉnh ở miền Trung (Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng…). Từ Đại Lội Thăng Long về phía Hòa Lạc đi lên Ba Vì - Sơn Tây ta thấy nhan nhản hàng trăm cửa hàng bán "Đặc sản sữa Dê, Bò Ba Vì".
2. Tại sao ở Việt Nam hiện nay con Dê phát triển chậm?
Dê ở Việt Nam chậm phát triển là do những nguyên nhân sau đây:
- Cách đây khoảng 20 năm, nhiều lúc, nhiều nơi, đã có chủ trương diệt Dê như diệt giặc do chưa biết tập tính của con Dê: Dê rất thích hoạt động, nghịch ngợm, lúc đuổi lẫn nhau, trèo leo ở những mỏm đá cheo leo… Do vậy có nhà thơ xưa đã viết:
"Dê con buồn sừng húc giậu thưa"
- Các phương pháp chăn nuôi mới về nuôi Dê chưa được phổ cập cho người nuôi Dê.
- Do con Dê là vật nhỏ bé ít quan tâm. Hiểu biết về giá trị sản phẩm của con Dê lại càng ít hơn. Thí dụ: Chưa hiểu sữa Dê có hàm lượng dinh dưỡng cao, các axit béo không nhưng nhiều, do đó "bà quý tử" tắm sữa Dê nên kéo dài tuổi trẻ, da mịn màng, hồng tươi; cho dù tuổi đã ngoại tứ tuần mà trên da mặt không một nếp nhăn, đôi môi vẫn đỏ thắm, khêu gợi.
- Công tác giống Dê chưa được chú ý. Nhiều gia đình nuôi Dê ở quy mô hộ hoặc trang trại không quan tâm đến công tác giống Dê. Trong đàn Dê thường chọn một con Dê đực để rồi sau đó cho nhảy với những Dê cái trong đàn. Từ đó dẫn đến "Dê bố nhảy với Dê con"; "Dê ông nhảy Dê cháu"; "Dê anh em nhảy lẫn nhau" dẫn đến Dê còi cọc, lưỡng tính dục, sinh sản kém. Ngoài ra còn cho Dê phối giống sớm nên chất lượng đàn Dê kém. Muốn có đàn Dê tốt cần phối giống cho Dê cái ở tuổi 8 tháng trở đi và cần sử dụng những con đực giống đã được lựa chọn, bình tuyển.
Ngoài những nguyên nhân đã nói ở trên thì muốn phát triển đàn Dê nhanh và vững chắc cần tìm cho nó một thị trường ổn định ở trong và ngoài nước. Cách đây không lâu có một cơ sở đã xuất khẩu Dê sống sang một nước ở Trung Đông, nhưng sau đó không tiếp tục được vì không có Dê, nhất là Dê đực ở độ tuổi 3-4 tháng.
Để thực hiện tốt, hiệu quả chăn nuôi Dê theo chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020 do Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt ngày 16 tháng 01 năm 2008, ngoài việc thực hiện tốt về kỹ thuật, cần có những chính sách phát triển chăn nuôi dê và sản xuất Dê theo hướng hàng hóa để không chỉ góp phần cung cấp sữa - thịt cho 86 triệu dân ở trong nước mà còn tìm thị trường xuất khẩu Dê sang các nước Trung Đông như Cowet, Bruney, I-ran, I-rắc… Cần có một tổ chức Hiệp hội chăn nuôi Dê Việt Nam để hợp tác với Hội nuôi Dê khu vực châu Á và Thái Bình Dương có trụ sở tại Indonexia, Hội nuôi Dê thế giới có văn phòng tại Mỹ. Các Hội này được thành lập từ năm 1976.
Tôi kỳ vọng rất nhiều vào sự phát triển con Dê ở nước ta, trong tương lai gần có sản phẩm Dê xuất khẩu để cạnh tranh với các nước trong khu vực khi cánh cửa Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) sẽ mở toang vào năm 2012.