ĐBSCL: Qua lũ 2011, đánh giá lại vai trò đê bao
Lũ lớn năm 2011 với mực nước đỉnh Tân Châu 4,87m, cao thứ 7 trong chuỗi đo đạc 85 năm là một thử thách với ĐBSCL nói chung và hệ thống đê bao-bờ bao nói riêng.
Đê bao-bờ bao ĐBSCL được hình thành một cách hệ thống sau khi thực hiện Quyết định số 99/TTg- ngày 9/2/1996 về việc “phát triển thủy lợi, giao thông, xây dựng nông thôn vùng ĐBSCL”. Phải nói là từ trước nhân dân ở đây rất sáng tạo để từng bước chung sống với lũ và bờ bao đã được hình thành khá sớm như bờ bao bảo vệ sản xuất một cách quy mô đã xuất hiện ở Chợ Mới (An Giang) từ đầu những năm 70 của thế kỷ trước, rồi bờ bao bảo vệ thị trấn Vĩnh Hưng, Tân Hồng (Đồng tháp)… có trước năm 1999.
Khi có Quyết định 99 với chủ trương đắp bờ bao lửng bảo vệ thu hoạch lúa hè-thu ở vùng ngập vừa, còn vùng ngập nông thì đắp bờ bao bảo vệ triệt để, nhân dân vùng ĐBSCL “được lời như cởi tấm lòng” đã nhanh chóng khoanh vùng đắp bờ bao cho toàn khu vực và có thể nói tới 2005 hầu như phủ tới 95% diện tích ĐBSCL.
Song song với đó là các tuyến và cụm dân cư vượt lũ nhanh chóng được hoàn thành. Sau lũ 2000 (mực nước đỉnh tại Tân Châu đạt 5,06m chỉ sau lũ 1961 và 1960) là 2 năm lũ vượt báo động 3 (năm 2001: 4,77m và năm 2003: 4,82m), còn lại là lũ vừa và lũ thấp. Lúc này nhân dân tranh thủ tôn cao bờ bao chống lũ triệt để để sản xuất vụ ba (vụ thu-đông) ngay cả ở vùng ngập vừa và có chỗ (An Giang, Đồng Tháp) lấn lên cả vùng ngập sâu và đã trúng đậm. Từ đó ở các vùng này thay khái niệm bờ bao bằng đê bao (cao hơn mặt ruộng trên 4 m). Đến 2007, diện tích lúa thu-đông toàn ĐBSCL đã lên tới trên 650 ngàn ha, rất nhiều nơi mới học làm theo trong một hai năm qua.
Lũ lớn năm 2011 sau gần 10 năm lũ thấp và vừa với mực nước đỉnh Tân Châu 4,87m, cao thứ 7 trong chuỗi đo đạc 85 năm là một thử thách với ĐBSCL, nói chung và hệ thống đê bao-bờ bao, nói riêng. Nhìn lại diễn biến lũ 2011 và các sự cố đê bao, chúng ta có thể đưa ra một vài nhận định sơ bộ sau:
Nhờ hệ thống điểm và tuyến dân cư vượt lũ cùng hệ thống giao thông liên huyện (có nơi về tận xã) mà dân cư Đồng bằng sống yên ổn trong lũ, không bị cô lập và việc đi lại bằng đường bộ khá thông suốt. Sự cố làm chết 63 người là do bất cẩn và hơn 200 trường bị ngập nền và đường tới trường làm học sinh phải nghỉ học sau này cần đầu tư nâng nền và có thể chuyển trường tới vị trí cao hơn.
Lúc lũ lớn đã xảy ra vỡ một số đê bao, phần lớn là các đê mới đắp chưa được gia cố và bị vỡ làm ngập và mất trắng khoảng 12.000 ha lúa vụ ba (chưa đến 2% diện tích lúa vụ này), còn sự cố sạt đê bao phải cứu hộ xảy ra nhiều nơi nhưng nhân dân và lực lượng vũ trang đã hàn gắn kịp thời. Lần đầu tiên, ĐBSCL trải qua việc hộ đê giống như ở Bắc bộ và rút ra được nhiều kinh nghiệm.
Sau một vụ lũ lớn 10 năm mới gặp lại một lần bảo vệ đê bao, bảo vệ mùa màng khá vất vả, nhân dân ĐBSCL được một vụ thu đông bội thu, trúng mùa, trúng giá và cả rơm cho chăn nuôi cũng có thu hoạch lớn.
Hôm cuối tháng 9 vừa rồi, lúc lũ lên gần đỉnh, chúng tôi về huyện An phú (An giang) để họp bàn có nên bao đê làm vụ ba không , có mặt Bí thư, chủ tịch huyện. Một điều chúng tôi không ngờ là ba xã Vĩnh Hữu, Vĩnh Lộc và Phú Hữu đang bị lũ tràn bờ bao thấp ngập mênh mông nhưng vẫn quyết tâm xin được quây đê vững chắc làm vụ thu đông.
Ông chủ tịch xã Vĩnh Lộc phát biểu: ”Dân chúng tôi xin được quây đê làm vụ ba vì muốn làm giàu, nếu không mấy tháng mùa nước nổi không có việc chỉ làm nghèo mà thôi”. Hôm đó đã bàn đến chi tiết cao trình đê và các công trình cống bọng, kênh rạch …để có thể thực hiện nguyện vọng đó.
Phải khẳng định là lên đê bao biến vụ thu-đông thành vụ chính ở ĐBSCL là đúng đắn hợp ý Đảng, lòng dân. Song việc quy hoạch phải làm cho tốt. Trước hết cần làm rõ nơi nào được lên đê bao để sản xuất lúa thu-đông, nơi nào không, chứ không để tự phát làm khó cho tỉnh. Nơi quây đê sản xuất lúa thu-đông cứ nói là 3 năm sản xuất 8 vụ và có 1 vụ bỏ ngỏ cho lũ tràn vào để cải thiện môi trường, lấy phù sa, nhưng thực chất chỉ là chứa lũ chứ có cho lũ chảy tràn thay đổi nước đâu, cho nên khi đã cho lũ tràn thì phải tràn cả băng. Cần phân định rõ khi lũ lớn thì bảo vệ vững chắc vùng nào và vùng nào phải trở thành băng thoát lũ giảm nhẹ áp lực nước.
Bấy giờ phải có chính sách bảo hộ sản xuất và nơi được bảo vệ vững chắc phải đóng góp nhiều hơn để bù cho nơi bị thiệt hại. Trong quy hoạch đắp đê bao cũng cần phải tính đến việc không làm tăng mực nước vượt mức cho phép ở các địa phương lân cận, nhất là ở biên giới với nước bạn, cũng đảm bảo cho nước chua (nước cỏ) tiêu thoát không bị ứ đọng lại .
Cần khẳng định lại việc quây đê bao sản xuất vụ thu đông ở vùng ngập lũ ĐBSCL là đúng đắn, dù 10 năm có mất mùa do lũ lớn ở diện tích nhỏ nào đó vẫn lãi lớn, chỉ cần nhân dân chủ động gia cố đê bao vùng sản xuất, được nhà nước hỗ trợ một phần. Công tác quy hoạch và dự báo lũ, xây dựng cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường trạm) làm tốt hơn thì nông thôn ĐBSCL sẽ trù phú hơn.








