Dấu tích vùng đất Đại Lại quê hương Hồ Quí Ly
Ở đây trước thời Trần đã có con đường thủy bộ Bắc Nam đi qua, theo hướng từ các huyện Vĩnh Lộc, Yên Định, Thạch Thành, hoặc Nga Sơn bây giờ. Ngày đó con sông Đại Lại (khoảng từ cầu Lèn đến Ngã Ba Bông) có nhiều ghềnh thác, thuyền bè qua lại rất nguy hiểm. Người dân đã dựng lên những đền miếu hai bên bờ sông để cầu xin thần linh ban cho sự yên lành, mà đền Hàn hiện nay là một bằng chứng. Bởi thế, Đại Lại trở thành một hậu cứ, mà các vua đầu triều Trần đã đến ẩn náu, tập kết lực lượng chống xâm lược. Trong cuộc kháng chiến chống giặc Mông Nguyên lần thứ hai, vào năm 1285, khi kinh đô Thăng Long và nhiều tỉnh phía Bắc đã bị địch vây hãm, chiếm cứ, thì các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Tiết chế Trần Hưng Đạo... đã bí mật dùng thuyền vượt biển từ Quảng Ninh vào Thanh Hóa, qua cửa Thần Phù ở Nga Sơn, dọc sông Hoạt đi vào sông Đại Lại. Tuy chính sử không thấy chép bộ chỉ huy tối cao của ta tập kết ở đâu, nhưng căn cứ vào câu chuyện dân gian khi đến khúc sông Lèn ngày nay thì trời gần tối, Tiết chế Trần Hưng Đạo đã mò cá ở sông để làm thức ăn dâng vua Trần và ở xã Hà Dương hiện vẫn có ngôi đền Trần mà tục cúng lễ là một con cá, đã cho phép chúng ta đoán nhận là hương Đại Lại thời đó nằm trong vùng ẩn náu và tập kết lực lượng của bộ chỉ huy tối cao quân dân Đại Việt. Dòng họ Lê ở địa phương này chắc đã đóng góp một phần tích cực, để sau đó chỉ vài tháng ta có đủ binh lương tấn công ra Bắc và quét sạch bọn xâm lược Mông Nguyên.
Có lẽ do các vua đầu triều Trần quen biết vùng đất Đại Lại như thế, nên chỉ sau sự kiện trên khoảng ba chục năm, vua Trần Minh Tông đã lấy luôn hai bà vợ người Đại Lại, mà Hồ Quí Ly gọi bằng cô. Bà Anh Tư, tức Minh Từ Hoàng thái phi sinh ra vua Hiến Tông và Nghệ Tông. Bà Quang Hiến, tức Đôn Từ Hoàng thái phi sinh ra vua Duệ Tông. Nhưng thời Minh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông làm vua thì Hồ Quí Ly còn nhỏ, hoặc chưa có điều kiện tiến thân, nên không thấy chính sử ghi tên. Phải chờ đến sau khi Dụ Tông mất (1369), Nhật Lễ lên nối ngôi. Nội bộ hoàng tộc nhà Trần sát phạt lẫn nhau, khiến cho Trần Nghệ Tông và một số tôn thất chạy tới Đại Lại nhóm họp bàn mưu tính kế, tập hợp lực lượng, rồi kéo về Đông Đô lật đổ Nhật Lễ (1370). Thời gian này Hồ Quí Ly đã 34 tuổi và chắc chắn đã đóng vai trò hết sức tích cực giúp Nghệ Tông thắng lợi. Vì thế ngay sau khi lên ngôi vua, vào năm1371, Nghệ Tông đã cất nhắc ngay Hồ Quí Ly giữ chức Khu mật viện đại sứ, là chức quan có nhiệm vụ xem xét các việc mật trong triều, gả người em ruột là công chúa Huy Ninh cho làm vợ lẽ và phong cho ông tước Trung tuyên quốc thượng hầu, là bậc thứ hai chỉ kém mỗi tước Công. Đây là lần đầu tiên tên tuổi Hồ Quí Ly được chính sử ghi chép. Việc Hồ Quí Ly đột nhiên được nhà Trần trọng đãi và ưu ái như thế, chứng tỏ ông đã có công lớn giúp anh em Nghệ Tông khởi binh trên vùng đất Đại Lại, quê hương mình, lật đổ được phe cánh để lên ngôi vua.Trong suốt 24 năm nắm quyền, Nghệ Tông hết sức tin tưởng Hồ Quí Ly, người em vợ gọi mình bằng anh và cất nhắc lên những chức vụ tột đỉnh. Đến khi Nghệ Tông mất (1394), Quí Ly thấy nhà Trần đã suy yếu, quyền lực nằm cả trong tay mình, nên có ý định đoạt ngôi vua. Vốn là người biết lo xa, Hồ Quí Ly đã tính đến sự chống đối của các thế lực trong nước và nhà Minh bên Trung Quốc sẽ mượn cớ xâm lược, nên đến năm 1397 ông cho khảo sát xây thành An Tôn, tức thành Nhà Hồ ở Thanh Hóa, tiếp đến xây cung Bảo Thanh ở hương Đại Lại quê hương mình, bức vua Trần Thuận Tông (1378-1399) dời đô từ Thăng Long về đây, ép nhường ngôi cho thái tử An, từ bỏ quyền hành và tu tại cung Bảo Thanh. Sau đó Quí Ly buộc Thuận Tông rời Đại Lại về tu tận Đông Triều, Quảng Ninh rồi bị bức tử. Đến năm 1400 Hồ Quí Ly đã đoạt ngôi vua lập ra triều đại nhà Hồ. Rồi sau đó truyền ngôi cho con là Hồ Hán Thương, người gọi Nghệ Tông bằng bác, để lên làm Thái thượng hoàng.
Theo sử sách cho biết thì cung Bảo Thanh, hay Ly cung là một công trình kiến trúc lộng lẫy, nguy nga, chiếm một diện tích vài ngàn mét vuông, nằm gọn trong thế tay ngai của núi Đại Lại. Ngoài cung điện chính, “ phía tả còn có lầu Đấu Kê đối diện và chùa Phong Công ở bên cạnh. Về phía tây thành lại có Dục Thành, tường đều xây đá hoa, khắc hình rùa rồng hoa lá, dưới lát đá phiến bằng phẳng như mài, trên đặt máng tre để hứng lấy nước khe ở sườn núi chảy vào.”(1). Dọc sông Đại Lại, Quí Ly đặt sở Tuần kiểm và cho chăng dây chảo to, thuyền bè phải kéo dây theo thứ tự mà đi, nhằm bảo vệ thành Tây Đô. Vậy là trong khoảng thời gian vài năm, từ giữa năm 1398 đến đầu năm 1400, Đại Lại đã trở thành đế đô tạm thời của nước ta và tác giả công trình kiến trúc này cũng là Hồ Quí Ly. Trần Nguyên Đán (1325-1390), một tôn thất nhà Trần đã từng đến Đại Lại cùng với Nghệ Tông bàn mưu lật đổ Nhật Lệ năm 1370, đã có những vần thơ sau ca ngợi phong cảnh Đại Lại : “Tống giang thủy hiệp ba thanh tiếu Đại Lại sơn không thảo sắc thiên.” (Nước Tống giang sóng reo nhè nhẹ (2)/ Núi Đại Lại cỏ mọc xanh xanh). Sau khi đoạt ngôi vua, Hồ Quí Ly dời kinh về thành Tây Đô. Đến năm 1403, có lẽ muốn đánh dấu ngôi báu nhà Hồ mới mẻ, bền lâu, nên Hồ Hán Thương cho đổi tên Đại Lại thành Kim Âu. Vì thế sau này có tên gọi xã Kim Âu, núi Kim Âu, sông Kim Âu, chùa Kim Âu. . .
Sau hơn 6 thế kỉ, thành đá Tây Đô mà Hồ Quí Ly là tác giả đến nay vẫn tồn tại và đã dược UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Nhưng những công trình kiến trúc ở quê hương Đại Lại, mà Hồ Quí Ly cũng là tác giả, thì hầu như đã trở thành phế tích. Duy chỉ còn lại mấy phiến đá xây cung Bảo Thanh, một số gạch ngói hoa văn thời Trần và tấm bia đá dựng trên lưng một con rùa đá có khắc lời đề dẫn và hai bài thơ Đường luật nói về Kim Âu, của vua Lê Tương Dực triều Lê Sơ, sáng tác vào ngày 25 tháng 2 năm Hồng Thuận thứ 3 (1511), nghĩa là sau ngày triều Hồ sụp đổ hơn 100 năm. Có lẽ đây là tác phẩm giúp hậu thế chúng ta biết về Đại Lại, quê hương Hồ Quí Ly một cách cụ thể, trung thực nhất. Bài thơ chữ Hán này còn ít biết, nên chúng tôi xin được giới thiệu cùng bạn đọc : Phiên âm: “Ngự chế Kim Âu thi
I - Độc hạnh Kim Âu lộ bát thiên/ Thừa nhàn khiển hứng lộng xuân thiên/ Đình tiền bách thảo lăng yên diệm/ Giai hạ tiên hoa tiếu nhật tiên/ Dung đắc thanh trung xuân vũ trụ/ Thu lai thế thượng ngọc sơn xuyên/ Lũy triều cảnh vật y nhiên tại/ Trợ thắng vô cùng vĩnh viễn niên.
II - Khuất chỉ tiên triều dĩ kỉ niên/ Kim Âu y cựu ngọc hồ thiên/ Lão tùng chiếm đắc phong sương hảo/ Cổ thụ vi thành cẩm tú tiên/ Vạn đóa tường vân già thúy lĩnh/ Thiên hàng hồng diệp ánh thanh xuyên/ Kì đa cảnh trí miêu nan tận/ Sổ cú ngâm nga trợ thắng niên.
Bảo Thiên động chủ đề Hồng
Thuận tam niên nhị nguyệt nhị thập ngũ nhật.
Dịch nghĩa : “Thơ vua đề Kim Âu
I – Đường trường tám ngàn dặm may được về thăm/ Kim Âu Nhân lúc thanh nhàn cảm hứng đùa với cảnh trời xuân/ Trăm cây cỏ trước đình như lấn át cả mây thanh/ Ngàn bông hoa dưới bệ như vui cười với bầu trời xanh thắm/ Trong âm thanh nghe như chứa cả cái xuân sắc của đất trời/ Trên cõi thế gian như thu về cả cái quí giá của non sông/ Cảnh vật bao triều đại vẫn còn y nguyên như cũ/ Giúp cho năm tháng mãi mãi trường tồn.
II - Bấm đốt tính từ tiên triều đến nay đã mấy ngàn năm/ Âu vàng vẫn vững như xưa trong bầu trời ngọc/ Tùng già như giữ được cái tươi đẹp của gió sương/ Cổ thụ vây kín nơi này làm đẹp tươi cảnh giang sơn gấm vóc/ Muôn đóa mây lành che mát dịu đỉnh núi biếc/ Ngàn hàng lá thắm rực ánh cả sông xanh/ Biết bao cảnh trí ở đây sao miêu tả hết/ Ngâm nga đôi câu để giúp cho tháng năm tươi đẹp thêm!”
Lê Tương Dực đề Ngày 25 tháng 2 năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) (3)
Dịch thơ:
I - “Kim Âu muôn dặm được về thăm/ Ngàn hứng đùa vui với cảnh xuân/ Trăm cỏ trước đình chùm khói biếc/ Ngàn hoa dưới bệ giỡn trời xanh/ Thanh âm chứa cả xuân trời đất/ Cõi thế thu về ngọc núi sông/ Cảnh vật bao triều y dấu cũ/ Giúp cho năm tháng mãi trường xuân.
II - Bấm đốt tiên triều trải bấy năm/ Kim Âu muôn thưở sáng bầu xuân/ Tùng già giữ được màu sương đẹp/ Cổ thụ làm nên cảnh trí thanh/ Muôn đóa mây lành che núi biếc/ Ngàn hàng lá thắm rọi dòng xanh/ Bao nhiêu cảnh đẹp khôn đường tả/ Ngâm vịnh vài câu thắm vẻ xuân”.
Hồng Phi- Hương Nao dịch.
Triều đại nhà Hồ do Hồ Quí Ly lập nên chỉ tồn tại bảy năm, song thành Nhà Hồ mà ông là tác giả thì vẫn trường tồn qua hơn sáu trăm năm, đã có bao nhiêu thế hệ du khách, nhà nghiên cứu chiêm ngưỡng, ngạc nhiên, ca ngợi và đến nay được thế giới vinh danh là di sản văn hóa của toàn nhân loại! Giới thiệu vài nét về Đại Lại (Kim Âu) là nhằm cung cấp thêm tư liệu để mọi người hiểu rõ hơn về quê hương sinh thành vị kiến trúc sư “ Thành Nhà Hồ” nói trên và sau khi tham quan khách thập phương có dịp tới thắp hương tưởng nhớ đến tác giả của di sản văn hóa thế giới này, một nhân vật lịch sử đang còn nhiều ý kiến khen chê khác nhau, song đã để lại một tác phẩm kì diệu cho đất nước.
(1) Quốc sử quán triều Nguyễn – Đại Nam nhất thống chí – Tập 2 – Nxb Thuận Hóa Huế 1992 - Tr. 270.
(2) Con sông chảy từ Ninh Bình đến huyện Tống Sơn cũ (nay thuộc địa phận Bỉm Sơn, Hà Trung). Một nhánh là con sông Lèn, một nhánh là con sông Hoạt bây giờ.
(3) Có tham khảo bản dịch của Đinh Công Vĩ in trên “ Thông báo Hán Nôm học năm 2000 - Viện nghiên cứu Hán Nôm xuất bản Hà Nội 2001.








