Đau lưng & cao hổ cốt
Thuật ngữ “đau lưng” thường được dùng cho những cơn đau cấp tính ngang vùng cột sống thắt lưng với nguyên nhân gây đau nằm ở đâu đó trên dưới thắt lưng quần (y văn tiếng Anh gọi là “low back pain”). Ước tính hàng năm ở Mỹ có khoảng 31 triệu người đau lưng, và tổng chi phí lên đến hơn 50 tỉ USD. Người bệnh có thể đau khu trú một điểm giữa cột sống hoặc các điểm cạnh cột sống thắt lưng. Đôi khi đau lan sang 2 bên. Cơn đau cấp tính thường khởi phát đột ngột, dần dần hoặc dữ dội sau khi khiêng, nhắc vật nặng trong tư thế cúi lưng, hoặc các tư thế sai khác, dù là làm việc nhẹ nhàng.
Dù có điều trị đúng mức hay không thì chứng đau thắt lưng cấp tính sẽ hết trong vòng 1 - 3 tuần. Nếu đau kéo dài trên 2 tháng được xem là đau (thắt) lưng mạn tính, thường do điều trị không đúng đắn hay bỏ qua không điều trị. Cách phòng bệnh và điều trị hiện nay là giúp bệnh nhân không bị tái phát cơn đau, hoặc chuyển thành đau mạn tính vì các cơn đau này thường tái đi tái lại nhiều lần, ngày càng thường xuyên hơn, rồi đau lan xuống chân, thành hội chứng đau thần kinh tọa, là 1 biến chứng trầm trọng sẽ đến của đau thắt lưng. Thống kê của Bệnh viện Bạch Mai từ 1991 - 2000 cho thấy số lượt bệnh nhân đau thần kinh tọa đến khám tại khoa Cơ - Xương - Khớp chiếm 11,2%, chỉ đứng thứ 2 sau viêm khớp dạng thấp.
Nguyên nhân thường gặp
Đau thắt lưng ngày nay không còn là bệnh “dành riêng” cho tuổi già. Nó thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, tuy rằng ở ngưỡng tuổi trên 60, đau dễ xảy ra nhất do quá trình lão hóa tự nhiên của cơ thể, phần lớn là do các bệnh lý thoái hóa như thoái hóa đĩa đệm thắt lưng, hẹp ống sống thắt lưng… Ở lứa tuổi trung niên, hay bắt đầu tuổi “gió heo may”, đau dần xuất hiện do đĩa đệm cột sống mất nước dần theo thời gian, gây nên những dấu hiệu của bệnh lý thoái hóa hoặc lún đốt sống do loãng xương… Trong lứa tuổi lao động (từ 20 - 40 tuổi), đau thắt lưng thường do các nguyên nhân từ đĩa sống, do chấn động cơ học khi thực hiện một động tác gắng sức hay sai tư thế, thường do ỷ lại vào sức mạnh mà không chú ý tư thế đứng. Với lứa tuổi dưới 20, đau thắt lưng kéo dai có thể là triệu chứng của một bệnh thực thể như lao cột sống, hoặc ung thư di căn từ cơ quan khác, ung thư tủy sống… Với mọi lứa tuổi, đau thắt lưng liên quan đến việc ngồi liên tục nhiều giờ, thiếu vận động. Đặc biệt là với phụ nữ sau mãn kinh, đây là dấu hiệu chỉ điểm một tình trạng loãng xương, có khi xảy ra tình trạng gãy xương sống âm thầm do loãng xương.
Vấn đề sử dụng cao hổ cốt trong điều trị đau thắt lưng
Như trên đã nói, có rất nhiều nguyên nhân gây nên chứng đau thắt lưng, do đó cũng có nhiều cách điều trị tùy theo nguyên nhân cụ thể, không loại trừ phẫu thuật. Người thầy thuốc cần khám thật kỹ và tư vấn người bệnh về các phương pháp điều trị. Riêng dưới góc độ dân gian và y học cổ truyền, cao hổ cốt vẫn là một phương thuốc được cho là hiệu nghiệm bậc nhất, một phần do rất hiếm (phải chăng vì vậy nên quí?), được nhiều người xem như thần dược và sẵn sàng bỏ ra nhiều tiền để mua (vì xương hổ rất đắt tiền, thị trường chợ đen dao động từ 1.500 - 3.750 USD/ kg), nhưng ngay cả khi có nhiều tiền vẫn chưa chắc mua được cao “xịn”, mà có nguy cơ mua phải cao gấu, cao khỉ, hoặc tệ hơn là trâu, bò… vì một lẽ đơn giản: nguồn cung cấp không đủ cầu, hổ ngày càng hiếm và đã được đưa vào Sách đỏ (cấm săn bắn).
Một bộ xương hổ được đánh giá là thượng phẩm phải nặng tối thiểu 12 kg mới đủ tiêu chuẩn để nấu cao với điều kiện không thiếu mảnh xương nào và không lẫn lộn xương động vật khác. Để tăng thêm tác dụng theo nguyên tắc “quân, thần, tá, sứ”, người ta thêm 1 bộ xương sơn dương và 1 bộ xương khỉ (không rõ loại khỉ nào), kiểu như vua thì phải có tả hữu 2 bên mới làm nên chuyện (!).
Y học cổ truyền cho rằng cao hổ cốt có tính ấm, vào được 2 kinh Can và Thận, có công dụng bổ dưỡng, trục phong hàn, trừ thấp, trấn thống, mạnh gân cốt, thường dùng chữa các bệnh lý liên quan đến xương - khớp như viêm đa khớp, thoái hóa các khớp, viêm cột sống dính khớp, loãng xương, và làm mau lành gãy xương, suy nhược cơ thể…
Có thể nói, cao hổ cốt là môt trong những vị thuốc Đông y nhận được sự tán dương nồng nhiệt về hiệu quả điều trị từ y văn cho đến giới bình dân, thậm chí thu hút sự chú ý của các thầy thuốc y học hiện đại. Thử xem xét tính đúng đắn của những lời quảng bá về cao hổ cốt dưới góc nhìn khách quan của y học hiện đại.
Về thành phần dinh dưỡng, cao hổ cốt chứa collagen, mỡ, calcium phosphat, magnesium phosphat, gelatin, đạm… nghĩa là cũng giống như các loại cao xương động vật khácnhư gấu, khỉ, chó và gần đây là… mèo. Rất nhiều tài liệu cho rằng tỉ lệ đạm toàn phần trong cao hổ cốt rất cao, gấp 900 lần các động vật khác (không ghi rõ động vật nào), nhưng không đưa ra được công trình nghiên cứu nào về tỉ lệ trên. Ngược lại, một nghiên cứu của DS. Trần Lâm Huyến (Dược học 4 - 1963) cho thấy tỉ lệ này trong cao hổ cốt là 14,93 - 16,66%, tương đương với cao gấu, cao khỉ, cao ban long (gạc nai). Kết quả cũng tương đương về tỉ lệ axit amin.
Cho đến nay, chưa có bất cứ một công trình khoa học nàonghiên cứu về hiệu quả trong điều trị các bệnh lý xương khớp của cao hổ cốt (và của các loại xương động vật khác) cả về lâm sàng và thực nghiệm. các tác dụng “thần kỳ” của cao hổ cốt chỉ là những “ lời đồn đại, huyền thoạivà lâu dần trở thành niềm tin. Trong y học cổ truyền có thuyết “ hình - ý tương ứng”, mà dân gian thường gọi là “ ăn gì bổ nấy”. Theo thuyết này, ăn tay gấu sẽ khỏe như… gấu, tinh hoàn dê, hải cẩu sẽ mạnh về sinh dục, ăn vi cá mập khỏe gân cốt… Có lẽ đây là cơ sở (mong manh) để huyền thoại và niềm tin trên có chỗ dựa.
Theo dược học cổ truyền, tất cả các loại cao xương động vật thông dụng hiện nay đều có tác dụng chung là bổ can thận, trừ phong thấp, mạnh gân xương, tăng cường sinh lực… và mỗi loại cao còn có một hoặc vài tác dụng đặc trưng. Nhưng không có loại cao nào đắt tiền như cao hổ cốt. Vậy nên chăng, dùng những loại cao khác để thay thế cao hổ cốt nhằm giảm chi phí điều trị và góp phần bảo vệ loài hổ vốn chỉ còn khoảng 300 cá thể ở Đông Dương (theo tạp chí NationalGeographic), đó là chưa nói đến việc cao hổ cốt “xịn” thật sự nhưng vẫn có thể được trộn thêm vào ít thuốc Tây để có tác dụng giảm đau tức thời nhằm gây niềm tin cho những người nhẹ dạ.