Đâu là rào cản cho việc phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam?
Tiềm năng phong phú
Với điều kiện thiên nhiên và thổ nhưỡng, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng để phát triển NLTT. Theo đánh giá của Bộ Công thương, có 6 dạng NLTT chủ yếu mà Việt Nam có thể khai thác, đó là: Năng lượng mặt trời, năng lượng gió, thủy điện, năng lượng sinh khối, khí sinh học, năng lượng địa nhiệt.
Nguồn năng lượng mặt trời ở nước ta khá dồi dào, mỗi năm có khoảng 2.000 - 2.500 giờ nắng với lượng bức xạ mặt trời đạt 150 Cal/cm2 thì nguồn bức xạ nhiệt này có thể cung cấp từ 3 - 4,5 kWh/m2/ngày (mùa đông) hoặc 4,5 - 6,5 kwh/m2/ngày (mùa hè).
Theo kết quả khảo sát chương trình đánh giá về năng lượng cho châu Á của Ngân hàng Thế giới, với lợi thế nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa lại có chiều bờ biển trên 3.000 km, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng gió rất lớn, với tổng tiềm năng đạt 513.360 MW, gấp 200 lần công suất nhà máy thủy điện Sơn La và hơn 10 lần tổng công suất dự báo của ngành điện Việt Nam vào năm 2020.
Bên cạnh đó, với hệ thống sông suối nhỏ dày đặc, hiện nay nước ta có khoảng 120.000 trạm thủy điện, chủ yếu do tư nhân đầu tư, với tổng công suất ước tính khoảng 300 MW, cung cấp điện hàng năm cho hàng vạn hộ gia đình ở các khu vực miền núi và vùng cao.
Khoảng 200 nguồn suối nước nóng nhiệt độ từ 40 - 150 0C tập trung ở khu vực Tây Bắc và miền Trung sẽ là nguồn năng lượng địa nhiệt lý tưởng để xây dựng các trạm phát điện. Hơn 100.000 nhà máy xay xát lúa gạo ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long có thể cung cấp nhiên liệu cho các nhà máy điện chạy bằng vỏ trấu với tổng công suất khoảng 250 MW. Khí sinh học (biogas) ở khu vực châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long đang được các hộ gia đình, các trại chăn nuôi sử dụng để nấu nướng, thắp sáng và chạy các động cơ công suất nhỏ.
Hiện trạng khai thác
Mặc dù có nhiều tiềm năng nhưng đến nay việc phát triển NLTT ở Việt Nam còn rất hạn chế, chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với các nguồn năng lượng khác. Do chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, việc khai thác còn mang tính tự phát, thiếu quy hoạch tổng thể và chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Cùng với đó là những bất ổn của thời tiết và biến đổi khí hậu. Theo Thạc sĩ Nguyễn Minh Việt - Viện Thủy điện và Năng lượng tái tạo, tỉ lệ các trạm thủy điện nhỏ ngừng hoạt động trên cả nước là 61%. Tổng công suất của các trạm đang còn hoạt động chỉ vào khoảng 3% tiềm năng và chỉ đạt khoảng 50 - 70% công suất thiết kế.
Tuy nước ta đã phát triển nguồn năng lượng điện mặt trời từ những năm 1960 và đã hoàn toàn làm chủ công nghệ năng lượng mặt trời song việc khai thác nguồn năng lượng này chưa hiệu quả. Đã có những cơ sở sử dụng năng lượng mặt trời theo các dạng như pin mặt trời để phát điện, hệ thống đun nước nóng mặt trời, lò sấy bằng năng lượng mặt trời… nhưng số lượng còn ít và qui mô chưa lớn. Hiện nước ta đang triển khai một số dự án nhà máy sản xuất tấm pin năng lượng mặt trời như Dự án của Tập đoàn First Solar (Hoa Kỳ) tại khu công nghiệp Đông Nam (huyện Củ Chi, Tp. HCM) với tổng vốn đầu tư hơn 1 tỉ USD; đặc biệt nhà máy sản xuất tấm pin năng lượng mặt trời đầu tiên của nước ta tại Cụm công nghiệp Đức Hòa (Long An) thuộc Công ty cổ phần Năng lượng mặt trời đỏ (Red Sun) đã đưa sản phẩm ra thị trường từ tháng 4 - 2009.
Năng lượng gió tại Việt Nam trong thời gian qua mới chỉ được khai thác một số lượng nhỏ với hơn 1.500 tuabin gió có công suất từ 15 - 200W được lắp đặt tại các vùng nông thôn và hải đảo tại Việt nam phục vụ nhu cầu hộ gia đình chủ yếu cho bơm nước tưới tiêu và nạp pin năng lượng…
Hiện nay ở Việt Nam đã có nhiều nhà đầu tư nước ngoài và các công ty trong nước đang xây dựng các dự án điện gió với công suất từ 6MW đến 150W. Hơn 20 dự án điện gió hiện nay đang được tiến hành với khả năng tạo ra một công suất điện dự kiến là 20.000 MW. Tuy nhiên, cho đến nay hầu hết các dự án này đều chưa được đưa vào hoạt động và kết nối với lưới điện quốc gia, ngoại trừ dự án Nhà máy sản xuất lắp ráp tuabin điện gió tại huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận (thuộc Công ty Cổ phần Phong điện Fuhrlaender Việt Nam) là đã hoàn thành 25% tiến độ, cho đến nay đã có 20/80 trụ tuabin đã phát điện hòa vào điện lưới, công suất mỗi trụ là 1,5MW. Đây là một dự án do Fuhrlaender đầu tư xây dựng trong thời gian 6 năm (2008 - 2014) với tổng số vốn đầu tư là 25 triệu USD, toàn bộ thiết bị, công nghệ được nhập khẩu hoàn toàn từ CHLB Đức. Khi dự án hoàn thành sẽ có 80 tuabin hoạt động với tổng công suất là 120MW.
Những rào cản và giải pháp khắc phục
Viện Nghiên cứu, ứng dụng các nguồn NLTT trong đó phát triển mạnh năng lượng gió và năng lượng mặt trời là xu hướng tất yếu của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, song do đầu tư ban đầu quá lớn nên giá thành sản xuất điện gió, điện mặt trời cao hơn nhiều so với thủy điện và nhiệt điện nên không khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn vào lĩnh vực này. Trong giá thành các dạng NLTT, năng lượng gió thấp hơn năng lượng mặt trời nhưng so với thủy điện thì quá cao. Theo Bộ Công thương, giá bán điện của các nhà máy điện vừa và nhỏ cho EVN dao động từ 450 - 700 đồng/kWh, trong khi điện gió lên tới 1.300 đồng/kWh. Vì thế, các nhà đầu tư vẫn tỏ ra lo ngại về mức giá cạnh tranh của các nguồn NLTT.
Với mục tiêu phấn đấu từ nay đến năm 2015, NLTT chiếm 3% tổng công suất điện thương mại và đạt 5% vào năm 2020, vấn đề then chốt là phải có công nghệ NLTT tiên tiến, chi phi hợp lý, có chính sách hỗ trợ thích hợp, khuyến khích các nhà đầu tư trong việc cải tiến công nghệ để giảm dần chi phí sản xuất NLTT, tiến tới có thể cạnh tranh về giá so với năng lượng truyền thống.
Ông Micheal Roeder - Giám đốc phụ trách phát triển năng lượng gió của GE Enegry khu vực châu Á - Thái Bình Dương cho rằng, để phát triển NLTT nói chung và điện gió nói riêng cần phải có khung pháp lý rõ ràng và ổn định trong một thời gian dài. Việt Nam cần khẩn trương xây dựng các chính sách và khung pháp lý có liên quan ổn định giúp nhà đầu tư có thể dựa vào đó để đưa ra quyết định đầu tư, đồng thời có cơ chế khuyến khích tài chính cho mỗi đơn vị điện gió được hòa vào mạng lưới điện chung.
Nhằm tháo gỡ bước đầu những rào cản trong phát triển NLTT ở Việt Nam, mới đây, Chính phủ đã có Quyết định số 37/QĐ-TTg ngày 29/6/2011 về cơ chế hỗ trợ giá điện đối với dự án điện gió nối lưới: Bên mua có trách nhiệm mua toàn bộ sản lượng điện từ các dự án điện gió với giá mua điện tại điểm giao diện là 1.614 đồng/kwh (chưa bao gồm thuế VAT, tương đương 7,8 Uscents/kwh). Giá mua điện được điều chỉnh theo biến động của tỉ giá đồng/USD; Nhà nước hỗ trợ giá điện cho bên mua điện với toàn bộ sản lượng điện mua từ các nhà máy điện gió là 207 đồng/kwh (tương đương 1,0 Uscents/kwh) thông qu Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam.








