Dấu ấn lịch sử trong sự phát triển của Nhật Bản
Trong những nguyên nhân trên có cái mới xuất hiện sau chiến tranh, nhưng cũng có nhiều nguyên nhân có từ trong lịch sử Nhật Bản như: mở cửa để tiếp thu những thành tựu văn minh thế giới để phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước; truyền thống “tự lực, tự cường” và cũng phải kể thêm về ý thức cộng đồng và lòng tự hào dân tộc của người Nhật.
Biết tiếp thu, vận dụng sáng tạo những thành tựu văn hoá, khoa học kỹ thuật của nước ngoài để làm phong phú và thúc đẩy cho văn hoá và khoa học, kỹ thuật của đất nước phát triển.
Nhìn vào văn hoá Nhật Bản, chúng ta thấy có hai tầng. Tầng thứ nhất là văn hoá Jomon - văn hoá thuần tuý của Nhật Bản. Tầng thứ hai là văn hoá Xayoi - văn hoá có những yếu tố ngoại lai nhưng lại văn minh hơn và quá trình đó vẫn còn tiếp tục cho đến ngày hôm nay.
Từ thời trung đại Nhật Bản tiếp thu văn hoá Trung Hoa - một trung tâm văn hoá và học thuật tiên tiến lúc bấy giờ của thế giới.
Có thể kể từ năm 630 đến 864, kéo dài 264 năm, Nhật phải gửi đều đặn đến Trung Hoa nhiều đoàn sứ giả (Khitoshi). Qua những đoàn người này, Nhật Bản thủ đắc được văn hoá Trung Hoa về mọi phương diện, từ luật pháp đến bộ máy hành chính, triết học, đạo đức, hệ thống giáo dục… Đến năm 1894, việc gửi những phái bộ sang Trung Hoa được dừng lại vì người Nhật thấy không cần thiết nữa.
Trong thời Cận đại, Nhật Bản tiếp thu kỹ thuật và mô hình nhà nước phương Tây - một trung tâm văn minh của thế giới vào các thế kỷ XVII - XIX.
Thời đại Minh Trị 1868 được xem như mở đầu cho làn sóng văn hoá Âu - Mỹ xâm nhập vào Nhật Bản. Thật ra, trước đó Nhật Bản đã có liên hệ với phương Tây và đặc biệt là quan hệ về thương mại và kỹ thuật hàng hải với Hà Lan từ nửa cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.
Vào năm 1871, phái bộ đầu tiên của Nhật Bản do vương tước Iwakura đã lên đường đi Hoa Kỳ và Âu Châu vào ngày 23/12/1871. Phái đoàn này đã lưu lại hơn một năm để nghiên cứu, học hỏi, ghi chép về kỹ thuật, luật pháp, tổ chức bộ máy nhà nước… của các nước Âu - Mỹ, nhằm đẩy nhanh quá trình đi lên chủ nghĩa tư bản của nước Nhật.
Sau đó, nhiều người ngoại quốc được tuyển dụng vào hấu hết các ngành hoạt động của quốc gia, như cơ quan lập pháp, quân đội, kinh tế… Họ được hưởng lương cao, bổng lộc hậu, và họ thật sự là những cố vấn trong các vấn đề này. Qua đây, ta nhớ lại vào thế kỷ VI, VII, Nhật Bản đã áp dụng chính sách đãi ngộ, ưu tiên cho những thợ thủ công giỏi của Triều Tiên và Trung Hoa đến làm việc ở Nhật Bản và họ đã thành công.
Con đường tiếp thu của Nhật Bản bao giờ cũng trải qua hai giai đoạn. Giai đoạn mở cửa và đóng cửa, giai đoạn hấp thụ và tiêu hoá, giai đoạn làm trò và giai đoạn làm thầy. Tức là đi từ thấp đến cao. Từ con đường đó mà Nhật Bản đã tạo ra những mẫu mã mới, những mặt hàng mới, đẹp hơn, bền hơn, rẻ tiền hơn và hấp dẫn hơn ngay cả đối với chính quốc. Vì vậy mà Trung Hoa, Triều Tiên lẫn Ấn Độ đều nói rằng văn hoá của họ đã biến thành của Nhật Bản đều khác với những hình thức nguyên thuỷ.
Từ trong lịch sử, Nhật Bản đã tích luỹ được kinh nghiệm trong việc tiếp xúc, hoà đồng với thế giới. Nhờ vậy, bước sang thời hiện đại, Nhật Bản đã vận dụng những kinh nghiệm đó một cách mềm mại uyển chuyển hơn, dễ dàng tiếp thu những yếu tố tích cực của các nước tiên tiến nhằm làm cho văn hoá mà nhất là khoa học kỹ thuật Nhật Bản phát triển kịp và vượt các nước đó.
Tự lực tự cường , một truyền thống lâu đời, nổi bật của người Nhật. Người Nhật sống trên những hòn đảo “chông chênh” liên tục động đất, thường xuyên thiếu ăn trong hàng chục thế kỷ liền và đặc biệt là Nhật Bản cách biệt với đất liền, tức là bị cô lập với thế giới bên ngoài về mặt địa lý. Do vậy, từ rất sớm người Nhật đã phải tự giải quyết lấy công việc của chính mình, vì không thể thoái lui và cũng không thể nương tựa vào đâu được. Và nhất là khi người Nhật tiếp thu được đạo Khổng thì ý chí “tự lực tự cường” ấy càng được củng cố vững chắc hơn. Cũng có thể nói rằng: nhờ ý chí “tự lực tự cường” mà Nhật Bản đã vươn lên những đỉnh cao mới, những vị trí mới trong các thời kỳ khác nhau của lịch sử khu vực và thế giới, mặc dù điểm xuất phát ban đầu của Nhật Bản có muộn hơn.
Từ thế kỷ XVII, Nhật Bản đã đạt được nhiều thành tựu tiên tiến về nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương mại và hàng hải trong khuôn khổ chế độ phong kiến ở khu vực châu Á.
Sau hơn 30 năm cải cách của Minh Trị, Nhật Bản đã vươn lên thành một đế quốc hùng mạnh nhất ở Châu Á.
Ba mươi năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản từ một nước bại trận trở thành một cường quốc về kinh tế, cạnh tranh dữ dội với Mỹ và Tây Âu.
Ý thức cộng đồng và lòng tự hào dân tộc.
Ngày xưa, người Nhật thường đề cao và tự hào về gia tộc, dòng dõi, làng, nước của mình. Ngày nay, người Nhật thường suy nghĩ và hành động cho cộng đồng, cho tập thể. Cộng đồng ở đây có thể là một tổ hợp, một nhà máy, một công ty… và rộng lớn hơn cả là một cộng đồng dân tộc.
Từng cộng đồng sẽ lo cho các thành viên từ việc làm, nhà ở, học hành và cả việc xây dựng gia đình, cũng như lo cho con cái của họ nữa. Điều này ở phương Tây không thể có. Do vậy, quan hệ chủ - thợ ở đây có tính chất đặc biệt, như anh em cùng ăn một nhà, cùng sinh hoạt với nhau. Lợi ích của cá nhân gắn liền với lợi ích của cộng đồng, của công ty… Mặc dù vậy, sức bóc lột tư bản chủ nghĩa của chủ đối với thợ cũng không mất đi.
Ngày nay, người Nhật đã rất giàu có, nhưng vẫn có số giờ lao động trong năm rất cao so với các nước tư bản khác như Mỹ, Anh, Pháp… trong đó có lý do họ làm việc vì sự vinh quang của dân tộc, vì sự vẻ vang của từng cộng đồng.
Nhiều hiện tượng lịch sử hiện đại có chiều sâu từ trong truyền thống quá khứ.
Nguồn: Xưa và Nay, số 101, tháng 10/2001







