Đào tạo tiến sĩ: Cần cải tổ từ cơ sở và ông thầy
Từ đại học Waseda ( Tokyo ), giáo sư kinh tế học Trần Văn Thọ đã “kiến nghị một giải pháp dứt khoát cho vấn đề học vị tiến sĩ”.
Mục tiêu không có căn cứ khoa học
Từ “lạm phát” văn bằng tiến sĩ tại Việt Nam không đủ để diễn tả tình hình đã quá trầm trọng. Ta vẫn còn bắt gặp những cụm từ “tiến sĩ giấy”, “thi hộ tiến sĩ”, “chợ luận án tiến sĩ”, v.v… trên các bài báo trong nước gần đây.
Tiến sĩ là học vị cao nhất trong khoa học mà lại có thể thi hộ, có thể mua luận án cũ để nộp mà vẫn lấy được bằng? Một người bình thường với một trình độ hiểu biết trung bình cũng có thể đặt ra nghi vấn đó. Đặt được nghi vấn đó thì thấy ngay cái gốc của vấn đề. Tại sao nhà nước vẫn không thấy hay là thấy mà vẫn không muốn sửa, và tại sao không muốn sửa?
Trong khi dư luận báo chí và những người hiểu biết than thở với nhau “cái học ngày nay đã hỏng rồi” thì những người có trách nhiệm của Nhà nước vẫn tiếp tục đưa ra mục tiêu không có căn cứ khoa học (đến năm 2010 phải có 19.000 tiến sĩ). Và để đạt mục tiêu, đã đưa ra các chỉ tiêu xuống các cơ sở giáo dục đào tạo mà theo chuẩn mực quốc tế, còn rất xa mới đủ năng lực để dạy bậc tiến sĩ.
Nhà nước có ảo tưởng là cứ tăng số lượng người có bằng tiến sĩ là có đủ “nhân tài” gánh vác công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Trong lúc đó, về phía cầu, xã hội ngày càng chạy theo bằng cấp, bằng càng cao càng dễ được đề bạt lên các chức vụ cao hơn. Cả hai mặt cung và cầu đều có thể sửa đổi được ngay nếu Nhà nước thấy vấn đề và có quyết tâm thực hiện.
Tôi vẫn không hiểu tại sao tình hình này cứ kéo dài và có chiều hướng trầm trọng hơn mặc dù nhiều người đã thấy vấn đề rất sớm và đã cảnh báo.
Gần 10 năm trước, trên báo Nhân Dân, tôi đã nêu vấn đề này.
Ở đại học thammasat, một đại học dạy kinh tế lâu đời nhất của Thái Lan, trong số gần 60 giáo sư, phó giáo sư và giảng viên chính của khoa kinh tế, có hơn 2/3 là những người đã học và lấy bằng tiến sĩ từ các nước tiên tiến, phần lớn là từ các đại học hàng đầu của Mỹ. Thế nhưng, để bảo đảm chất lượng văn bằng tiến sĩ, họ chưa dám bắt đầu đào tạo.
Với số người được thử thách và thành công ở các đại học tiên tiến như vậy, về mặt số giáo sư có tư cách hướng dẫn, họ đã có đủ. Nhưng các điều kiện khác không cho phép nghiên cứu sinh tại Thái Lan cập nhật với các nghiên cứu mới trên thế giới nên họ đã thận trọng. Vào thời điểm hiện tại, đại học Thammasat vẫn còn rất thận trọng mặc dù lực lượng giáo sư của họ hùng hậu hơn trước: Hiện nay, có 70 giáo sư, phó giáo sư và giảng sư trong khoa kinh tế. Hầu hết đã lấy tiến sĩ từ các nước tiên tiến, mấy năm gần đây họ đã chính thức xây dựng chương trình đào tạo tiến sĩ nhưng mỗi năm cũng chỉ cấp 4 hoặc 5 văn bằng.
Một người bạn của tôi đang dạy ở đó giải thích như sau: Vì muốn văn bằng tiến sĩ tại Thái Lan tương đương chất lượng với văn bằng tại các nước tiên tiến nên chúng tôi chủ trương không đào tạo nhiều và chọn đầu vào rất kỹ, chương trình học cũng vất vả nên những sinh viên giỏi và quyết chí học mới thi đỗ và học đến khi lấy được bằng. Thật ra Đại học Thammasat không phải là trường hợp cá biệt mà sự nghiêm túc đó rất phổ biến tại nhiều nước.
Cái gốc của vấn đề là gì?
Thật ra, trong bài báo đăng trên Tia Sáng (năm 2003), tôi đã nêu mấy kiến nghị cụ thể để giải quyết vấn đề cả hai mặt cung và cầu. Hôm nay, tôi xin rút gọn lại thành một đề nghị gồm mấy điểm mà tôi cho là cơ bản nhất.
Thứ nhất, cần thống nhất phương châm cơ bản là văn bằng tiến sĩ đào tạo ở Viêt Nam phải tương đương chất lượng với văn bằng tại các nước khác. Không thể cho rằng trình độ phát triển kinh tế, xã hội Việt Nam còn thấp thì phải chấp nhận văn bằng có giá trị thấp.
Thứ hai, nhà nước không giao chỉ tiêu đào tạo đến các viện, các trường, và không tạo điều kiện cho quan chức đi học tại chức để lấy bằng tiến sĩ (Quan chức nhà nước chỉ cần có bằng đại học, không xem học vị thạc sĩ hay tiến sĩ là tiêu chuẩn để đề bạt).
Thứ ba, tạm ngừng các chương trình đào tạo tiến sĩ tại các viện, các trường cho đến khi có chính sách mới, đồng thời tiến hành lập các hội đồng thẩm định gồm những nhà khoa học có uy tín trong và ngoài nước với nhiệm vụ thẩm định, đánh giá tư cách đào tạo tiến sĩ của các trường, các viện và các giáo sư. Công khai trên báo đài tên tuổi, thành tích khoa học của những thành viên trong các hội đồng thẩm định.
Thứ tư, sau chừng nửa năm hoặc một năm hoạt động của các hội đồng thẩm định, công bố danh sách các trường, các viện và tên các giáo sư đã qua thẩm định và được thừa nhận có tư cách đào tạo tiến sĩ. Các cơ quan này được phép tiếp tục các chương trình đào tạo tiến sĩ.
Thứ năm, những nghiên cứu sinh đã được nhận vào các viện, các trường không đủ tư cách đào tạo tiến sĩ phải thi lại vào các viện, các trường có tư cách đó.
Thứ sáu, khuyến khích những “tiến sĩ” đã lấy bằng tại các cơ sở không đủ tiêu chuẩn, mạnh dạn xin bảo vệ lại tại những viện, những trường có đủ tiêu chuẩn đào tạo.
Trong tương lai, những tiến sĩ chân chính sẽ ghi thêm chi tiết về nơi được đào tạo trong danh thiếp hoặc trong các giấy tờ liên hệ. Và như vậy, những tiến sĩ không đủ tiêu chuẩn phải bảo vệ lại hoặc tự đào thải.
Những đề nghị này tập trung giải quyết trên căn bản vấn đề tiêu chuẩn của các cơ sở đào tạo và của các giáo sư, phó giáo sư. Đây là vấn đề tế nhị và sẽ gặp phải sự phản kháng của những cơ sở và của nhũng người không đủ tiêu chuẩn. Nhưng không thể có phương pháp nào khác để giải quyết tình trạng hiện nay. Những người có ý kiến khác cũng nên công khai thảo luận trên báo đài.
Chúng ta thử trở lại các nghi vấn nêu ở đầu bài này
Dư luận phê phán “chợ luận án”, lên án người đi mua và bán luận án. Nhưng tôi lấy làm lạ là không ai đặt câu hỏi “làm sao những người mua luận án đã bảo vệ thành công và lấy bằng tiến sĩ”? Họ đã bảo vệ tại đâu, ai ở trong hội đồng chấm luận án ấy? Làm sao nhờ người khác thi hộ đề được ghi danh học tiến sĩ mà giáo sư hướng dẫn sau đó không phát hiện được? Chung quy cái gốc vẫn là ở cơ sở đào tào và ở người hướng dẫn làm luận án. Không giải quyết cái gốc này thì tình trạng vẫn như cũ.
Nếu đề án này được thực hiện thì mỗi năm, số người lấy được bằng tiến sĩ tại Việt Nam sẽ ít hẳn đi, nhưng đó là trạng thái bình thường ở giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước ta.
Ít nhất là trong bộ máy nhà nước và trong giới doanh nghiệp, số người có bằng tiến sĩ ở Việt Nam nhiều hơn hẳn ở Nhật Bản – là nước đông dân hơn nhiều và có thu nhập đầu người gấp 75 lần Việt Nam . Đó là hiện tượng dị thường.
Hiện nay, Bộ GD-ĐT đang có kế hoạch cải thiện chương trình đào tạo tiến sĩ. Đó là ý định tốt. Tuy nhiên, không thể chỉ sửa đổi các tiêu chuẩn, điều kiện liên quan đến luận án, đến quy trình đánh giá luận án và đưa chỉ thị mới xuống các cơ sở đào tạo hiện nay là cải thiện được tình hình. Phải giải quyết cái gốc của vấn đề.
Nguồn: Thông tin KH-CN Nghệ An, số 2/2006