Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 02/06/2006 15:29 (GMT+7)

Đào tạo tiến sĩ: Cần cải tổ từ cơ sở và ông thầy

Từ đại học Waseda ( Tokyo ), giáo sư kinh tế học Trần Văn Thọ đã “kiến nghị một giải pháp dứt khoát cho vấn đề học vị tiến sĩ”.

Mục tiêu không có căn cứ khoa học

Từ “lạm phát” văn bằng tiến sĩ tại Việt Nam không đủ để diễn tả tình hình đã quá trầm trọng. Ta vẫn còn bắt gặp những cụm từ “tiến sĩ giấy”, “thi hộ tiến sĩ”, “chợ luận án tiến sĩ”, v.v… trên các bài báo trong nước gần đây.

Tiến sĩ là học vị cao nhất trong khoa học mà lại có thể thi hộ, có thể mua luận án cũ để nộp mà vẫn lấy được bằng? Một người bình thường với một trình độ hiểu biết trung bình cũng có thể đặt ra nghi vấn đó. Đặt được nghi vấn đó thì thấy ngay cái gốc của vấn đề. Tại sao nhà nước vẫn không thấy hay là thấy mà vẫn không muốn sửa, và tại sao không muốn sửa?

Trong khi dư luận báo chí và những người hiểu biết than thở với nhau “cái học ngày nay đã hỏng rồi” thì những người có trách nhiệm của Nhà nước vẫn tiếp tục đưa ra mục tiêu không có căn cứ khoa học (đến năm 2010 phải có 19.000 tiến sĩ). Và để đạt mục tiêu, đã đưa ra các chỉ tiêu xuống các cơ sở giáo dục đào tạo mà theo chuẩn mực quốc tế, còn rất xa mới đủ năng lực để dạy bậc tiến sĩ.

Nhà nước có ảo tưởng là cứ tăng số lượng người có bằng tiến sĩ là có đủ “nhân tài” gánh vác công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Trong lúc đó, về phía cầu, xã hội ngày càng chạy theo bằng cấp, bằng càng cao càng dễ được đề bạt lên các chức vụ cao hơn. Cả hai mặt cung và cầu đều có thể sửa đổi được ngay nếu Nhà nước thấy vấn đề và có quyết tâm thực hiện.

Tôi vẫn không hiểu tại sao tình hình này cứ kéo dài và có chiều hướng trầm trọng hơn mặc dù nhiều người đã thấy vấn đề rất sớm và đã cảnh báo.

Gần 10 năm trước, trên báo Nhân Dân, tôi đã nêu vấn đề này.

Ở đại học thammasat, một đại học dạy kinh tế lâu đời nhất của Thái Lan, trong số gần 60 giáo sư, phó giáo sư và giảng viên chính của khoa kinh tế, có hơn 2/3 là những người đã học và lấy bằng tiến sĩ từ các nước tiên tiến, phần lớn là từ các đại học hàng đầu của Mỹ. Thế nhưng, để bảo đảm chất lượng văn bằng tiến sĩ, họ chưa dám bắt đầu đào tạo.

Với số người được thử thách và thành công ở các đại học tiên tiến như vậy, về mặt số giáo sư có tư cách hướng dẫn, họ đã có đủ. Nhưng các điều kiện khác không cho phép nghiên cứu sinh tại Thái Lan cập nhật với các nghiên cứu mới trên thế giới nên họ đã thận trọng. Vào thời điểm hiện tại, đại học Thammasat vẫn còn rất thận trọng mặc dù lực lượng giáo sư của họ hùng hậu hơn trước: Hiện nay, có 70 giáo sư, phó giáo sư và giảng sư trong khoa kinh tế. Hầu hết đã lấy tiến sĩ từ các nước tiên tiến, mấy năm gần đây họ đã chính thức xây dựng chương trình đào tạo tiến sĩ nhưng mỗi năm cũng chỉ cấp 4 hoặc 5 văn bằng.

Một người bạn của tôi đang dạy ở đó giải thích như sau: Vì muốn văn bằng tiến sĩ tại Thái Lan tương đương chất lượng với văn bằng tại các nước tiên tiến nên chúng tôi chủ trương không đào tạo nhiều và chọn đầu vào rất kỹ, chương trình học cũng vất vả nên những sinh viên giỏi và quyết chí học mới thi đỗ và học đến khi lấy được bằng. Thật ra Đại học Thammasat không phải là trường hợp cá biệt mà sự nghiêm túc đó rất phổ biến tại nhiều nước.

Cái gốc của vấn đề là gì?

Thật ra, trong bài báo đăng trên Tia Sáng (năm 2003), tôi đã nêu mấy kiến nghị cụ thể để giải quyết vấn đề cả hai mặt cung và cầu. Hôm nay, tôi xin rút gọn lại thành một đề nghị gồm mấy điểm mà tôi cho là cơ bản nhất.

Thứ nhất, cần thống nhất phương châm cơ bản là văn bằng tiến sĩ đào tạo ở Viêt Nam phải tương đương chất lượng với văn bằng tại các nước khác. Không thể cho rằng trình độ phát triển kinh tế, xã hội Việt Nam còn thấp thì phải chấp nhận văn bằng có giá trị thấp.

Thứ hai, nhà nước không giao chỉ tiêu đào tạo đến các viện, các trường, và không tạo điều kiện cho quan chức đi học tại chức để lấy bằng tiến sĩ (Quan chức nhà nước chỉ cần có bằng đại học, không xem học vị thạc sĩ hay tiến sĩ là tiêu chuẩn để đề bạt).

Thứ ba, tạm ngừng các chương trình đào tạo tiến sĩ tại các viện, các trường cho đến khi có chính sách mới, đồng thời tiến hành lập các hội đồng thẩm định gồm những nhà khoa học có uy tín trong và ngoài nước với nhiệm vụ thẩm định, đánh giá tư cách đào tạo tiến sĩ của các trường, các viện và các giáo sư. Công khai trên báo đài tên tuổi, thành tích khoa học của những thành viên trong các hội đồng thẩm định.

Thứ tư, sau chừng nửa năm hoặc một năm hoạt động của các hội đồng thẩm định, công bố danh sách các trường, các viện và tên các giáo sư đã qua thẩm định và được thừa nhận có tư cách đào tạo tiến sĩ. Các cơ quan này được phép tiếp tục các chương trình đào tạo tiến sĩ.

Thứ năm, những nghiên cứu sinh đã được nhận vào các viện, các trường không đủ tư cách đào tạo tiến sĩ phải thi lại vào các viện, các trường có tư cách đó.

Thứ sáu, khuyến khích những “tiến sĩ” đã lấy bằng tại các cơ sở không đủ tiêu chuẩn, mạnh dạn xin bảo vệ lại tại những viện, những trường có đủ tiêu chuẩn đào tạo.

Trong tương lai, những tiến sĩ chân chính sẽ ghi thêm chi tiết về nơi được đào tạo trong danh thiếp hoặc trong các giấy tờ liên hệ. Và như vậy, những tiến sĩ không đủ tiêu chuẩn phải bảo vệ lại hoặc tự đào thải.

Những đề nghị này tập trung giải quyết trên căn bản vấn đề tiêu chuẩn của các cơ sở đào tạo và của các giáo sư, phó giáo sư. Đây là vấn đề tế nhị và sẽ gặp phải sự phản kháng của những cơ sở và của nhũng người không đủ tiêu chuẩn. Nhưng không thể có phương pháp nào khác để giải quyết tình trạng hiện nay. Những người có ý kiến khác cũng nên công khai thảo luận trên báo đài.

Chúng ta thử trở lại các nghi vấn nêu ở đầu bài này

Dư luận phê phán “chợ luận án”, lên án người đi mua và bán luận án. Nhưng tôi lấy làm lạ là không ai đặt câu hỏi “làm sao những người mua luận án đã bảo vệ thành công và lấy bằng tiến sĩ”? Họ đã bảo vệ tại đâu, ai ở trong hội đồng chấm luận án ấy? Làm sao nhờ người khác thi hộ đề được ghi danh học tiến sĩ mà giáo sư hướng dẫn sau đó không phát hiện được? Chung quy cái gốc vẫn là ở cơ sở đào tào và ở người hướng dẫn làm luận án. Không giải quyết cái gốc này thì tình trạng vẫn như cũ.

Nếu đề án này được thực hiện thì mỗi năm, số người lấy được bằng tiến sĩ tại Việt Nam sẽ ít hẳn đi, nhưng đó là trạng thái bình thường ở giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước ta.

Ít nhất là trong bộ máy nhà nước và trong giới doanh nghiệp, số người có bằng tiến sĩ ở Việt Nam nhiều hơn hẳn ở Nhật Bản – là nước đông dân hơn nhiều và có thu nhập đầu người gấp 75 lần Việt Nam . Đó là hiện tượng dị thường.

Hiện nay, Bộ GD-ĐT đang có kế hoạch cải thiện chương trình đào tạo tiến sĩ. Đó là ý định tốt. Tuy nhiên, không thể chỉ sửa đổi các tiêu chuẩn, điều kiện liên quan đến luận án, đến quy trình đánh giá luận án và đưa chỉ thị mới xuống các cơ sở đào tạo hiện nay là cải thiện được tình hình. Phải giải quyết cái gốc của vấn đề.

Nguồn: Thông tin KH-CN Nghệ An, số 2/2006

Xem Thêm

Phú Thọ: Đề xuất xây dựng dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng tỉnh nhiệm kỳ 2025 - 2030
Sáng 26/11, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức hội thảo “Nghiên cứu, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025; đề xuất khâu đột phá và một số nhiệm vụ trọng tâm phục vụ xây dựng dự thảo Văn kiện ĐH Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XX, nhiệm kỳ 2025 - 2030” đối với đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà KH thuộc các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh.
Quảng Ngãi: Tìm giải pháp hoạt động có hiệu quả cho hợp tác xã
Sáng ngày 26/11, tại thành phố Quảng Ngãi, Liên hiệp hội tỉnh đã phối hợp với Liên minh Hợp tác xã tỉnh tổ chức Hội thảo khoa học tư vấn phản biện “Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hợp tác xã tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2025 – 2030”.
Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Vutsa thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP
Mới đây, Vusta tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP ngày 09/7/2024 nhằm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về công tác trí thức. Ông Phạm Ngọc Linh – Phó chủ tịch Vusta và ông Nguyễn Quyết Chiến – Tổng Thư ký Vusta chủ trì hội thảo.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.
Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học phải đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao
Việc quy hoạch lại hệ thống cơ sở giáo dục đại học và sư phạm giúp các cơ sở này nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và khả năng thích ứng với những thay đổi của xã hội và nền kinh tế, cần tính toán nhu cầu đặc biệt quan trọng của đất nước về nguồn nhân lực chất lượng cao như kỹ sư bán dẫn, kỹ sư vận hành đường sắt tốc độ cao…

Tin mới

Phát triển kinh tế báo chí trong chuyển đổi số
Cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ, đặc biệt là sự thay đổi mạnh mẽ trong hệ sinh thái truyền thông, chuyển đổi số là một trong những giải pháp cấp thiết và quan trọng hàng đầu nhằm đạt mục tiêu “hiện đại hóa” hoạt động báo chí theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là “xây dựng nền báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại”.