Đào tạo nghề là một nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam
Hiện nay nước ta còn khoảng 73% lao động chưa được đào tạo nghề sẽ làm gì? Chất lượng nguồn nhân lực như thế này thì làm sao hiệu quả và năng suất lao động cao? Làm sao để tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế?
Đây chính là bài toán nóng bỏng nhất mà người đứng đầu Chính phủ đặt ra cho cả hệ thống chính trị, trong đó co Hội Khoa học phát triển nguồn Nhân lực – Nhân tài Việt Nam cần phải suy nghĩ để góp phần xây dựng một chiến lược, kế hoạch có hiệu quả trong lĩnh vực đào tạo nghề, nhất là trong bối cảnh nước ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Trong năm 2007 và các năm tiếp theo chắc chắn nhiều tập đoàn kinh tế sẽ đến Việt Nam , đã và sẽ đầu tư trên nhiều lĩnh vực.
Đến nay cả nước có trên 90 khu công nghiệp, khu chế xuất, hàng ngàn doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ ra đời, mở ra nhiều cơ hội giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động trẻ. Đồng thời đây cũng là một thách thức lớn phải vượt qua.
Nhìn lại thực trạng nguồn nhân lực của nước ta, cả nước có 53 triệu người trong độ tuổi lao động, chiếm hơn 63% dân số. Đây là một tiềm năng lớn để phát triển kinh tế, mà các nhà đầu tư nước ngoài cho là lợi thế của Việt Nam cần khai thác.
Song trong số 53% triệu lao động có đến 35% mới tốt nghiệp hoặc chưa tốt nghiệp tiểu học; 30,3% tốt nghiệp phổ thông cơ sở; 22% tốt nghiệp phổ thông trung học; khoảng trên 2 triệu người có trình độ trên đại học, đại học và cao đẳng. Có khoảng 2,5 triệu người là công nhân kỹ thuật...
Qua số liệu trên cho thấy chất lượng lao đọng nước ta còn thấp lại phân bố không đều trên các vùng kinh tế. Số lao động ở nông thôn chiếm hơn 70% lực lượng lao động cả nước, tỷ lệ nông nhàn và thiếu việc làm rất cao, số lao động trẻ hàng năm tăng rất nhanh, trong khi có khoảng 73% lao động chưa được đào tạo nghề, có khoảng 10 triệu người chưa có việc làm hoặc thiếu việc làm. Trong thời gian qua mặc dù Đảng và Nhà nước đã đầu tư khoảng 600 trường và trung tâm dạy nghề trong cả nước, nhưng số lao động qua đào tạo mới có khoảng 27%, chất lượng đào tạo chưa đạt chuẩn quốc tế, chương trình giảng dạy chưa phù hợp với thị trường, thiếu lao động có tay nghề để cung cấp cho các nhà đầu tư nước ngoài, trong nước, cho các khu công nghiệp, khu chế xuất và cho xuất khẩu lao động. Năng suất lao động thấp trong bảng xếp hạng của 125 nước và vùng lãnh thổ Việt Nam đứng thú 77.
Theo tài liệu công bố của cơ quan nghiên cứu về lao động thế giới, nguồn nhân lực của nước ta đang thấp về tính cạnh tranh so với các nước trung khu vực. Nếu lấy thang điểm là 10 là cao nhất thì chỉ số tổng hợp của nguồn nhân lực Việt Nam là 3,79 trong khi đó Malaysia là 5,59, Trung Quốc là 5,73, Hàn Quốc là 6,91. Mức độ sẵn có về lao động có chất lượng cao của Việt Nam chỉ đạt 3,25 điểm trong thang điểm 10. Điều đó cho thấy nước ta thiếu nghiêm trọng nguồn nhân lực có chất lượng cao để đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế.
Để phát huy nguồn lực của 53 triệu người trong độ tuổi lao động, đòi hỏi phải sớm xây dựng một chiến lược phát triển nguồn nhân lực, nhân tài của đất nước, trong đó cần có một chiến lược riêng trong lĩnh vực đào tạo nghề. Cụ thể là:
Trước mắt Đảng và Nhà nước cần tiếp tục ban hành chính sách nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Đẩy mạnh xã hội hoá trong đào tạo nghề, khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội, chính trị xã hội, các doanh nghiệp của Nhà nước và tư nhân để tham gia đào tạo nghề. Cần huy động các lực lượng chủ chốt sau:
1. Phát triển và củng cố các trường dạy nghề, các trung tâm dạy nghề của TW, địa phương, các Bộ, ngành, các trung tâm đơn vị khuyến nông, khuyến công... để làm nòng cốt trong đào tạo nghề có chất lượng cao.
2. Huy động các Hội, Hiệp hội, các tổ chức phi chính phủ trong nước tham gia đào tạo nghề. Đây là lực lượng hết sức quan trọng, mà trong thời gian qua chưa được Nhà nước quan tâm đúng mức. Hiện nay nước ta có trên 364 Hội và Hiệp hội hoạt động trên phạm vi toàn quốc và hơn 4157 hội phạm vi hoạt động trên 64 tỉnh, thành phố trong đó có trên 500 tổ chức hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ, hàng trăm tổ chức bảo trợ xã hội và tư vấn pháp luật. Các Hội, Hiệp hội đã thu hút hàng trăm ngàn hội viên hoạt động từ TW đến các tỉnh, thành, quận, huyện, xã, phường, tập hợp được rất nhiều nhà khoa học từ tiến sĩ, giáo sư, phó giáo sư, kỹ sư, cử nhân, nghệ nhân, công nhân lành nghề đã về hưu hoặc đang hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để khai thác nguồn chất xám này để tham gia trong việc thành lập các trung tâm đào tạo nghề, tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao năng suất và hiệu quả cho nền kinh tế.
3. Khuyến khích và tạo điều kiện cho các tập đoàn kinh tế trong nước và ngoài nước, các doanh nghiệp tư nhân đầu tư xây dựng các cơ sở dạy nghề chất lượng cao trước khi đầu tư sản xuất kinh doanh, để khi các công trình đưa vào hoạt động thì đã có sẵn nguồn nhân lực đồng bộ đáp ứng được ngay cho sản xuất. Đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất, các doanh nghiệp hiện có cần phát triển thêm các trung tâm dạy nghề riêng vừa đảm bảo nguồn nhân lực cho mình và cung cấp thêm cho xã hội. Đối với các viện nghiên cứu, các trường đại học, cao dẳng mở thêm các trung tâm dạy nghề, liên kết với các doanh nghiệp TW và địa phương, các tổ chức xã hội để đào tạo nghề góp phần giải quyết công ăn việc làm cho lao động trẻ. Điều quan trọng để đảm bảo cho đào tạo nghề có hiệu quả là các tổ chức kinh tế, người sử dụng lao động, cơ sở đào tạo phải liên kết và phối hợp hài hoà giữa cung và cầu, giữa đào tạo và sản xuất, giữa thị trường lao động và người lao động.
Để điều phối các nguồn lực trên tham gia trong đào tạo nghề cần thiết phải có một cơ quan điều hành chung có tính chuyên nghiệp cao, dự báo được yêu cầu của thị trường lao động trong và ngoài nước qua từng thời kỳ, cung cấp thông tin kịp thời cho người lao động và người sử dụng lao động; Xây dựng nội dung, chương trình giảng dạy, trang thiết bị phù hợp với từng đối tượng học nghề, giới thiệu đội ngũ giáo viên có năng lực để làm công tác giảng dạy. Đồng thời cũng là cơ quan tư vấn cho Nhà nước trong việc cung cấp tài chính từ ngân sách, từ nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của các nước, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ của nước ngoài một cách minh bạch cho tổ chức, đơn vị đào tạo nghề. Thúc đẩy sự liên kết, liên doanh giữa các cơ sở đào tạo của Nhà nước, tư nhân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội nghề nghiệp. Theo dõi, kiểm tra, tổng kết các mô hình dạy nghề có hiệu quả và nhân rộng ra trong đoàn xã hội...
Làm được những điều trên chắc chắn rằng số lao động được đào tạo nghề sẽ tăng nhanh và cao hơn chỉ tiêu 50% vào năm 2010 mà chính phủ đã đề ra.
Trong bối cảnh ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu và yêu cầu xây dựng đất nước ta thành một nước công nghiệp hoá hiện đại hoá, việc phát triển nguồn nhân lực có ý nghĩa cực kỳ quan trọng quyết định đến việc nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, tăng sức cạnh tranh, giải quyết nguồn lao động dư thừa không có việc làm trong xã hội, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội. Vì vậy việc xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực của đất nước trở nên hết sức cấp bách, đòi hỏi trung ương, địa phương và cả hệ thống chính trị cùng tham gia.
Nguồn: Biển Việt Nam , 3 - 2008, tr 39








