Đào tạo kỹ sư chuyên nghiệp - Thời cơ và thách thức
Ở nước ta hiện nay, nguồn nhân lực kỹ thuật cao, đặc bịêt là kỹ sư chuyên nghiệp đang còn hạn chế. Trong số trên 500 nghìn người có trình độ từ đại học trở lên, mới có 108 người được công nhận đạt tiêu chuẩn kỹ sư chuyên nghiệp (chiếm 0,02%). Nhìn chung, khả năng hội nhập toàn cầu của đội ngũ kỹ sư Việt Nam đang còn bất cập, chưa đạt trình độ khu vực do thiếu trình độ ngoại ngữ, kiến thức quản lý và am hiểu luật pháp. Chính phủ cho phép thành lập Hội kỹ sư chuyên nghiệp, hướng tới lập tổ chức giám sát kỹ sư chuyên nghiệp để giúp kỹ sư hành nghề có điều kiện học hỏi vươn lên, đạt tiêu chuẩn theo những quy trình đăng bạ để có nhiều kỹ sư chuyên nghiệp theo thông lệ quốc tế.
Kỹ sư chuyên nghiệp trong xu thế phát triển toàn cầu
Kỹ sư chuyên nghiệp (KSCN) được hiểu đó là những người tốt nghiệp đại học kỹ thuật, có kiến thức, kinh nghiệm, đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng hành nghề; họ cũng là người có khả năng tổ chức và quản lý lĩnh vực phụ trách để làm tốt việc cung cấp các dịch vụ khoa học kỹ thuật, công nghệ chất lượng cao được thị trường, khách hàng và các Hội nghề nghiệp chấp nhận. KSCN không phải là một học hàm, học vị, chức vụ mà là danh hiệu để hành nghề độc lập với tinh thần trách nhiệm, trung thực, tường minh, dân chủ, có văn hoá vì những giá trị kỹ thuật, xã hội; vì lợi ích cộng đồng và an toàn của con người. KSCN chịu trách nhiệm cá nhân toàn diện về những quy định mang tính chuyên môn nghiệp vụ, không quá lệ thuộc vào quyết định mang chất hành chính; họ thường là người chủ trì, giám đốc điều hành, giám đốc kỹ thuật, chủ trì công việc chính của dự án kỹ thuật hoặc là những kỹ sư tư vấn, quản lý điều hành, nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và giảng dạy đào tạo.( Nguyễn Trường Tiến, 2008)
Trên thế giới, việc phân loại và công nhận kỹ sư chuyên nghiệp đã được tiên hành từ lâu. Tại Oxtrâylia, Hội kỹ sư đã triển khai hoạt động này cấch đây 70 năm; nước Mỹ và Anh việc đăng bạ kỹ sư còn được tiến hành sớm hơn nhiều. Ở Anh, đăng bạ KSCN đã được ghi nhận trong Hiến chương Hoàng gia do Hội đồng kỹ sư (Engineering Council UK ), gồm 35 tổ chức nghề nghiệp thực hiện. Tại Mỹ, theo luật Kỹ sư chuyên nghiệp trong bộ luật Kinh doanh và hành nghề (Business and Professions Codes) và những quy định của Bộ Các vấn đề của người tiêu dùng, đã thành lập Ban Kỹ sư chuyên nghiệp (Board for Professional Engineering and Lands Surveyors) với những thành viên do Nhà nước bổ nhiệm để thực hiện việc đăng bạ KSCN.
Ở châu Á, việc công nhận KSCN của Nhật Bản được thực hiện chặt chẽ hơn; Hội kỹ sư Nhật bản là tổ chức được giao nhiệm vụ đăng bạ KSCN. Để trở thành KSCN, người kỹ sư phải có ít nhất 7 năm kinh nghiệm hành nghề, đủ tiêu chuẩn đạo đức và phải qua các kỳ thi khó khăn. Thống kê nhiều năm cho thấy, tỷ lệ kỹ sư vượt được vòng thi tuyển đạt khoảng 14% và trong tổng số trên 4 triệu kỹ sư đang hành nghề mới có 1% được cấp chứng chỉ KSCN.
Trong khu vực ASEAN, Singapor là nước coi trọng việc đăng bạ KSCN. Luật KSCN (Prroesional Engineers Act) ban hành năm 1.991 đã quy định việc đăng bạ, quản lý trình độ và việc hành nghề của KSCN. Cơ quan xét cấp chứng chỉ KSCN là Uỷ ban KSCN (Professional Engineers Board) gồm những thành viên nhà nước bổ nhiệm, Ban này đã cấp chững chỉ KSCN cho 11 ngành.
Mặc dù có sự khác biệt giữa các nền kinh tế và ngành kỹ thuật, song cách tiến hành đào tạo, những quy định nghề nghiệp và cấp chứng chỉ cho KSCN giữa các quốc gia lại có sự tương đồng (Peter Tay lor 2008). Worsak Kanok Nukulchai ở học viện Công nghệ châu Á (AIT) cho rằng, đội ngũ kỹ sư đã có những đóng góp quan trọng để tăng trưởng hiệu quả và bền vững, họ là những người tạo sự thịnh vượng ở các quốc gia. Tuy nhiên, trong sự biến đổi toàn cầu và thay đổi nhanh của kỹ nghệ, họ phải vượt qua ngưỡng của kỷ nguyên biến đổi công nghệ, đang đặt ra những thách thức to lớn cả trong công nghệ, công nghiệp và đời sống xã hội. Theo ông, chuyển dịch cơ cấu kinh tế-xã hội đã gợi ra cho kỹ thuật phải xem xét lại quan điểm phát triển phù hợp trong sự chuẩn bị cho tương lai. Thực tiễn đặt ra buộc các KSCN không thể ngồi yên mà phải biến mình thành những nhà tư tưởng và những ai không quan tâm đến kiến thức và công nghệ mới, chắc chắn sẽ tụt hậu nhanh trước yêu cầu mới đặt ra.(W.K. Nukulchai 2.008).
Muốn gắn kết nhu cầu biến động với việc làm, trong đào tạo KSCN cần trang bị kiến thức cơ bản để phân tích và tổng hợp, xác định và giải quyết việc cần làm bằng kỹ năng thành thạo và ý thức kỷ luật cao, để có thể kết nối hoặc tạo sự kết nối liên ngành với hiệu quả cao. Để đủ năng lực thực thi và tiềm năng trí tuệ cần thiết, trong bối cảnh kinh tế-xã hội và chính trị của thời kỳ hội nhập, việc học tập suốt đời đối với KSCN là một đòi hỏi khách quan. Những thách thức toàn cầu buộc việc xây dựng đội ngũ chuyên nghiệp phải tái định hướng cho kỹ sư những quan điểm trực tiếp, mang tính mở đường; cần làm cho quá trình giáo dục kỹ thuật gắn bó với công nghiệp và những mong đợi của xã hội (Nukuchai 2008). Trong xã hội tri thức phát triển, kiến thức và công nghệ thay đổi rất nhanh; nếu không được bổ sung, nâng cao trình độ người kỹ sư dễ bị hụt hẫng, tụt hậu. Không thể chỉ một lần đào tạo là đã đủ kiến thức sử dụng cả đời. Do vậy, để trở thành người KSCN phải liên tục học hỏi, bổ sung và cập nhật tri thức, coi việc học tập suốt đời là một yêu cầu bắt buộc.( VUSTA 2008)
Đội ngũ trí thức và kỹ sư chuyên nghiệp Việt Nam
Theo tư liệu của VUSTA, đội ngũ trí thức Việt Nam hiện có trên 2,4 triệu người, chiếm 2,9% dân số. Trong đội ngũ này, 65% làm việc trong các tổ chức giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học, 22% công tác tại các cơ quan hành chính nhà nước, khoảng 13% làm việc trong các doanh nghiệp. Cả nước hiện có 39.000 người có trình độ thạc sĩ, 14.000 tiến sĩ và chừng 300 nghìn trí thức Việt làm việc ở nước ngoài (VUSTA 2.008).
Trí thức Việt Nam đã góp phần tích cực trong công cuộc xây dựng đất nước, có nhiều thành tựu khoa học và công nghệ được áp dụng trong thực tiễn mang lại hiệu quả KT-XH cao. Tuy nhiên, đội ngũ trí thức, nhất là trí thức khoa học công nghệ đang bị giới hạn về trình độ, thiếu các nhà khoa học giói, chuyên gia đầu ngành và đặc biệt là khả năng sáng tạo công nghệ. So với các nước trong khu vực, trình độ tri thức nước ta có khoảng cách không nhỏ; hàng năm tỷ lệ công trình được đăng tải trên các tạp chí quốc tế của các nhà khoa học nước ta mới ở mức 0,02%, thấp hơn Indonesia 2 lần, kém Thái Lan 5,5 lần, Singapor 12,5 lần và Đài Loan đến 38,5 lần (Phạm Văn Tân 2.008)
Trong phát triển KT-XH đất nước, dịch vụ kỹ thuật tổng hợp chuyên nghiệp đã được mở mang, gắn với hoạt động kinh tế, trở thành nhân tố tích cực để tăng trưởng kinh tế và ổn định đời sống xã hội với 156 nhóm ngành, nghề, thu hút chừng 50 vạn kỹ sư tham gia. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, tính chuyên nghiệp của đội ngũ kỹ thuật nước ta có nhiều hạn chế. Hầu hết chương trình đào tạo Đại học Việt Nam đều được thiết kế theo những hướng chuyên môn hoá hẹp. Ngoài kiến thức chuyên môn được đào tạo, dường như những kiến thức bổ sung về quản lý, tài chính, kế toán, luật pháp....kỹ sư chuyên ngành ít được quan tâm. Với hạn chế này, kỹ sư mới ra trường có nhiều lúng túng, gặp khó khăn hành nghề, phải tốn nhiều thời gian, công sức để bổ sung hoàn thiện ( VUSTA 2.008)
Kết quả điều tra, khảo sát của Hội đồng đăng bạ KSCN Việt Nam gần đây cho thấy, nhóm kỹ sư làm công tác tư vấn, thiết kế, lập dự án, khảo sát và quản lý dự án chiếm tới 45%. Trong số này, người có trình độ chủ trì thiết kế, giám đốc và chủ trì dự án (có thâm niên làm việc từ 10 đến trên 20 năm) không nhiều, chưa tới 20% .Da số kỹ sư sống bằng nghề nghiệp của mình đã hành nghề trong một tổ chức nhất định, điều này cho phép họ có thể tiếp tục học tập, tích luỹ nâng cao trình độ để trở thành những kỹ sư chuyên nghiệp. Số đông kỹ sư hành nghề có ý thức tự học hỏi để nâng cao khả năng phân tích, đánh giá những vấn đề phức tạp, song mặt yếu là thiếu trình độ ngoại ngữ nên khả năng hợp tác và hội nhập khu vực có nhiều giới hạn.( VUSTA 2.008; Phạm Văn Tân 2.008)
Cơ hội và thách thức đối với KSCN Việt Nam
Với việc gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nước ta chính thức tham gia vào nền kinh tế toàn cầu, tạo sân chơi mở rộng cho các tổ chức và mọi cá nhân trong quá trình hội nhập quốc tế. Thị trường toàn cầu là cơ hội để các đối tác tham gia có thể tiếp cận trực tiếp được với những nền khoa học và công nghệ tiên tiến, có điều kiện mở rộng áp dụng công nghệ hiện đại để đi tắt dón đầu; đây cũng là quá trình thúc đẩy cải cách để nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Là thành viên chính thức của WTO, Việt Nam có thuận lợi cơ bản để thâm nhập, mở rộng thị trường, thu hút vốn đầu tư nước ngoài; đẩy mạnh công nghiệp hoá và tăng cường năng lực kinh tế. Thực hiện những cam kết WTO, cơ chế hữu hiệu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ sẽ kích thích mạnh mẽ việc đầu tư chuyển giao công nghệ và đưa công nghệ mới vào các ngành kinh tế, mở ra cơ hội mới cho kỹ sư chuyên nghiệp hành nghề với yêu cầu cao về kỹ năng và tri thức công nghệ. (Lê Thành Ý 2006, Nguyễn Huy Khôi 2008)
Hội nhập toàn cầu mở ra những cơ hội mới, nhưng cạnh tranh gay gắt và quyết kiệt hơn trên diện rộng sẽ tạo ra những phân hoá xã hội và trong hành nghề của mõi kỹ sư. Trong điều kiện kinh tế chưa phát triển, kinh nghiệm quản lý hạn chế, hệ thống luật pháp chưa hoàn thiện thì khó khăn đối với đất nước và từng con người sẽ là không nhỏ, người kỹ sư chuyên nghiệp cũng phải đương đầu với những thách thức đòi hỏi phải vươn lên bằng chính sức mình.
Trong xu thế hội nhập, làn sõng công nghệ mở rộng với tốc độ phát triển ngày càng cao. Sau cách mạng công nghiệp, cách mạng điện tử thế giới bước vào giai đoạn mới với những xa lộ thông tin tích hợp trên mạng đa truyền thông, đã đặt ra những thách thức đào tạo mới trong thời đại thông tin. Từ yêu cầu dân chủ hoá giáo dục, đào tạo kỹ sư giai đoạn tới phải hướng đến quốc tế hoá để người được đào tạo có kiến thức và đủ bản lĩnh hoạt động trong nền kinh tế toàn cầu dựa trên tri thức. Người KSCN phải thích ứng được với môi trường làm việc không còn biên giới quốc gia, cơ hội mở ra ngày một nhiều nhưng cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt. Những thách thức đặt ra đòi hỏi việc đào tạo phải gắn với nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghiệp để người kỹ sư ra trường đủ năng lực tìm được việc làm. Để KSCN đóng góp được vào phát triển kinh tế và vì lợi ích cộng đồng, đào tạo kỹ thuật phải hướng vào giúp kỹ sư có thể làm được vai trò thiết lập xu hướng, là chất xúc tác cho những thay đổi trong sự kết hợp tri thức với công nghiệp.( Chuah Hean Teik 2008)
Sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi mỗi nhà kỹ thuật phải luôn hoàn thiện kỹ năng nghề nghiệp để đáp ứng nhu cầu không ngừng biến động cả về tri thức và công cụ thực hiện. Nâng cao tính chuyên nghiệp của người kỹ sư là một đòi hỏi khách quan trong quá trình phát triển. Người KSCN có quyền hành nghề không phụ thuộc vào mệnh lệnh hành chính, nhưng phải chịu trách nhiệm cao về những quyết định chuyên môn, nghiệp vụ. Để làm được trọng trách của mình, KSCN phải đáp ứng được tiêu chuẩn ngặt nghèo về trình độ nghề nghiệp, đạo đức hành nghề và kiến thức xã hội. Để được công nhận là KSCN ở các nước APEC, ứng viên phải là những kỹ sư qua 7 năm kinh nghiệm hành nghề, có 2 năm chủ trì hoặc quản lý những công việc ký thuật quan trọng, Cứ 3 năm một lần, Uỷ ban Giám sát sẽ xem xét, kiểm tra lại, nếu KSCN đủ tiêu chuẩn được công nhận lại, còn không đạt sẽ bị xoá tên, giá trị chứng chỉ không còn. Đây thực sự là một thách thức cho những kỹ sư không đủ tầm vươn lên để thực hiện việc học tập suốt đời.
Đăng bạ kỹ sư chuyên nghiệp, công việc cần làm
Nâng cao tính chuyên nghiệp của kỹ sư là yêu cầu tất yếu trong phân công lao động xã hội; sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi người cán bộ kỹ thuật phải không ngừng học hỏi nâng cao kiến thức, hoàn thiện kỹ năng hành nghề để cung cấp những dịch vụ tốt nhất cho nhu cầu xã hội. Từ những đề xuất của VUSTA, việc lựa chọn công nhận KSCN ở nước ta được tiến hành theo những tiêu chí chặt chẽ cả về trình độ chuyên môn nghề nghiệp, đạo đức hành nghề và những hiêủ biết xã hội và do các Hội nghề nghiệp thực hiện.
Phân tích việc sử dụng KSCN thế giới cho thấy, nhiều nước đã có quy định cụ thể về đăng bạ KSCN nhằm quản lý chất lượng kỹ sư trong bảo vệ lợi ích cộng đồng. Đăng bạ KSCN là việc làm cần thiết, tạo những cơ hội thuận lợi cho lưu thông dịch vụ kỹ thuật trong hội nhập toàn cầu. Trong việc xem xét, công nhận KSCN, các Hội nghề nghiệp đều có vai trò quan trọng. Tại nhiều quốc gia, việc đăng bạ KSCN do các Hội nghề nghiệp đảm nhận với sự tham gia giám sát của cơ quan có liên quan. Để đăng bạ KSCN đạt được mục tiêu đề ra, việc xây dựng tổ chức, định quyền hạn, trách nhiệm và quy trình lựa chọn là việc làm cần thiết. Quy trình chỉ đạt kết quả tốt khi việc lựa chọn ngành nghề, đào tạo nâng cao, đào tạo lại và nhất là đào tạo suốt đời được xác định cụ thể, rõ ràng đối với cá nhân và từng đơn vị sử dụng kỹ sư.
Từ năm 1995, Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã chính thức tham gia Liên đoàn các tổ chức Kỹ sư ASEAN. Cuối năm 2005, các nước ASEAN đã ký “ Thoả thuận thừa nhận về dịch vụ giữa các nước thành viên”, trong đó có nội dung quan trọng phải thực hiện là đăng bạ KSCN theo tiêu chuẩn ASEAN, do Uỷ ban Đăng bạ kỹ sư ASEAN thực hiện.
Về cơ bản, tiêu chuẩn KSCN nước ta đã được xây dựng trên cơ sở tiêu chuẩn lựa chọn KSCN của ASEAN và APEC, nghĩa là, ứng viên phải là người tốt nghiệp đại học kỹ thuật, có tối thiểu 7 năm hành nghề, tinh thông nghiệp vụ kỹ thuật chuyên ngành, có năng lực hành nghề độc lập; có kinh nghiệm tổ chức, quản lý dự án kỹ thuật, có đậo đức nghề nghiệp, tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích khách hàng và thực hiện việc học tập suốt đời.
Trong số hàng chục vạn kỹ sư đang hoạt động ở nhiều lĩnh vực, cả nước mới có 108 kỹ sư được Liên đoàn các tổ chức kỹ sư ASEAN (AFEO) công nhận là KSCN; đây là hạn chế lớn trong thực thi những thỏa thuận “ Thừa nhận về tư vấn kỹ thuật ở các nước ASEAN” và Hiệp định khung về “Hợp tác dịch vụ” trong bối cảnh mở rộng hội nhập toàn cầu.
Từ những hạn chế của hoạt động KSCN Việt Nam, các nhà phân tích cho rằng, cần làm rõ vai trò, vị trí của KSCN trong CNH-HĐH đất nước; xã hội hoá chương trình đăng bạ KSCN Việt Nam và mở rộng việc tuyên truyền quảng bá để các cấp lãnh đạo và công chúng thừa nhận, tôn vinh KSCN. Trên cơ sở nhận thực đúng của xã hội, cần coi trọng tổ chức đào tạo lại, đào tạo liên thông, đào tạo nâng cao trình độ KSCN theo tiêu chuẩn quốc tế; thực hiện thường xuyên việc thi và công nhận KSCN theo quy chế Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Liên hiệp hội Việt Namđã kiến nghị một lộ trình thực hiện với những nội dung thực hiện đăng bạ kỹ sư Việt Nam . Theo đó, đã thành lập Hội đồng đăng bạ KSCN Việt Nam để thực hiện việc đăng bạ theo thông lệ quốc tế. Đăng bạ KSCN là việc làm có ý nghĩa trong xây dựng xã hội hiện đại, đây là công việc giúp người kỹ sư làm việc một cách chân chính, có trách nhiệm tường minh và dân chủ để hành nghề; KSCN sẽ được xã hội xem xét, đánh giá, thừa nhận bằng thực tế việc làm trong thực tiễn.
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, từ kinh nghiệm và việc làm của các quốc gia APEC và các nước trong khu vực, với bước khởi đầu nhiều hứa hẹn, hy vọng là hoạt động đăng bạ KSCN Việt Nam sẽ được mở mang, nhân rộng.
Tài liệu tham khảo
1. Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA):
Sổ tay giới thiệu đăng bạ KSCN - Hà Nội 2008
2. Chuah Hean Teik: Challenges and Opportunities in Engineering Education
International Workshop - Hanoi 6/2008
3.Peter Taylor: The Role of a Proesionel Engineering Institution in Setting and
Improving Engineering Standards
Hội thảo Thách thức và cơ hội trong đào tạo kỹ sư Hà Nội 6/2008
4. Worsak Kanok Nukulchai: Revitalizing Engineering Education in the Region
International Worrshop Challenges and Oportunities in Engineering Education
HanoiJune 2008
5. Nguyễn Huy Khôi:Thách thức và cơ hội cho ký sư Việt Nam trong hội nhập
Hội thảo quốc tế Thách thức và cơ hội trong đào tạo kỹ sư - Hà Nội 6/2008
6. Phạm Văn Tân: Đăng bạ KSCN tiêu chuẩn ASEAN
Hội thảo CEDU 8 Hà Nội 2008
7. Nguyễn Trường Tiến:Đăng bạ KSCN và thừa nhận lẫn nhau
Sổ tay đăng bạ KSCN Hà Nội 1/2008
8. Lê Thành Ý: Tác động và những thách thức khi vào WTO
Nguồn: Khoa học & Tổ quốc tháng 6/2006








