Đánh giá nguồn thải từ lục địa ảnh hưởng đến vùng biển Việt Nam
Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Nguyễn Văn Cư, Tổng cục trưởng, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam cho biết: Đây là một hoạt động nằm trong khuôn khổ dự án “Tăng cường xây dựng kế hoạch hành động toàn cầu - Đánh giá và lồng ghép việc quản lý nguồn gây ô nhiễm Biển và Ven bờ từ lục địa” (MCEB - GPA) do chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) tài trợ.
Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ giao thực hiện chức năng quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo từ năm 2008. Để thực hiện chức năng này, Tổng cục đã thực hiện hàng loạt các nhiệm vụ quan trọng, trong đó có nhiệm vụ kiểm soát và quản lý ô nhiễm biển, các sự cố môi trường biển, trong đó có sự cố tràn dầu. Như chúng ta biết, ô nhiễm biển là loại ô nhiễm không rõ nguồn gốc, trong đó khoảng 50 - 70% lượng thải ra biển là từ đất liền. Vì vậy quản lý ô nhiễm biển nguồn đất liền phải bắt đầu từ quản lý các hoạt động xả thải trên các lưu vực sông ven biển. Đây là một việc làm khó khăn, đòi hỏi cách tiếp cận tổng hợp và cơ chế phối hợp liên ngành.
Đại diện UNEP ông Razi Latif chia sẻ và ghi nhận những đóng góp quý báu của những bản tham luận đồng thời Ông cũng muốn cùng các bạn Việt Nam tiếp tục nghiên cứu và tăng cường quản lý nguồn và nguyên nhân gây ra ô nhiễm, cách khắc phục…
Tại hội thảo Ông Nguyễn Chu Hồi, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam nói về nhiệm vụ quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất biển và hải đảo của VASI: quản lý ô nhiễm từ nguồn lục địa. Để khắc phục tình trạng ô nhiễm như hiện nay và góp phần triển khai Nghị quyết 09/2007/NQ-TW về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái biển, phấn đấu trở thành một quốc gia giàu mạnh từ biển. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế biển, hải đảo và vùng ven biển với bảo vệ tài nguyên - môi trường sinh thái, tái tạo và phát triển các nguồn tài nguyên biển, đảm bảo phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường biển, ven biển và hải đảo. Kiểm soát được tình hình sử dụng biển, vùng ven biển và hải đảo trên cơ sở bảo đảm và cải thiện sinh kế của các cộng đồng dân cư ven biển và trên các hải đảo. Đổi mới và mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quản lý biển, vùng ven biển và hải đảo, trong bảo vệ tài nguyên môi trường biển, ứng phó với các tác động của biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng đến vùng bờ và các đảo nhỏ. Rà soát, xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý tổng hợp và thống nhất đối với biển, vùng ven biển và hải đảo.
![]() |
Ô nhiễm môi trường vùng bờ và từ nguồn lục địa
Cũng theo ông Hồi, môi trường và phát triển nói chung là hai mặt của một vấn đề. Môi trường bờ là địa bàn và là đối tượng phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, còn quá trình phát triển là nguyên nhân sâu xa gây ra các biến đổi môi trường và tài nguyên vùng bờ. Trong thực tế, tùy thuộc vào mức độ phát triển mà tác động qua lại giữa hai khía cạnh nói trên biểu hiện khác nhau. Vùng bờ có nhiều chức năng quan trọng, nhưng nhu cầu sử dụng tài nguyên biển và bờ ngày một tăng, đồng nghĩa với sự gia tăng các sức ép lên môi trường.
Các nguồn ô nhiễm từ lục địa theo sông ngòi mang ra biển như dầu và sản phẩm dầu, nước thải, phân bón nông nghiệp, thuốc trừ sâu, chất thải công nghiệp… Vùng ven bờ được xem là nơi tập trung cao các chất gây ô nhiễm thuộc loại không rõ nguồn, rất khó kiểm soát và xử lý. Do đó, để quản lý ô nhiễm biển người ta phải tiến hành kết hợp quản lý tại nguồn, trước hết phải quản lý chặt chẽ các chất thải phát sinh từ các hoạt động phát triển trên lưu vực sông ven biển và tại vùng ven biển. Từ phân tích trên cho thấy, quản lý ô nhiễm biển đòi hỏi phải phối hợp đồng bộ từ liên ngành, liên vùng để giải quyết các mối quan hệ tương tác trong phát triển theo nguyên tắc phòng ngừa.
![]() |
Hội thảo cũng nhận được những bài tham luận của TS. Nguyễn Xuân Độ, Cục Điều tra và Kiểm soát tài nguyên - môi trường biển, Ban quản lý Vịnh Hạ Long, Sở Tài nguyên môi trường Quảng Ninh… Ông Đặng Đình Lớp, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên môi trường Quảng Ninh báo cáo tiềm năng và thực trạng phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển của tỉnh, những áp lực từ phát triển kinh tế lên môi trường, hiện trạng môi trường ven biển, công tác quản lý môi trường hiện nay. Gia tăng dân số nhanh ở Quảng Ninh là một trong những nguyên nhân chính ảnh hưởng đến biến động tài nguyên, môi trường. Gia tăng dân số làm tăng nhu cầu sử dụng tài nguyên, tăng lượng nước thải và chất thải rắn qua đó có những tác động tích cực và tiêu cực đến sử dụng tài nguyên và môi trường… Đô thị hóa nhanh chóng dẫn tới sự quá tải không gian tự nhiên, lấn biển trở thành vấn đề khó tránh khỏi để phát triển đô thị ở Hạ Long, Cẩm Phả, Móng Cái và các huyện có biển. Việc lấn biển xây dựng hạ tầng trong thời gian qua, đặc biệt tại khu vực thành phố Hạ Long, Cẩm Phả đã gây ra hiện tượng rửa trôi đất đá, đẩy bùn ra vùng ven bờ do san lấp mặt bằng gây đục nước biển ven bờ cùng như bồi lắng luồng lạch, phá hủy các bãi triều vùng ven bờ, hệ sinh thái rừng ngập mặn là nơi cư trú, sinh sản của các loại thủy sản… Bên cạnh đó là áp lực từ hoạt động khai thác, chế biến, vận chuyển than, áp lực từ nuôi trồng thủy sản, áp lực từ hoạt động cảng, bến thủy nội địa và dịch vụ du lịch. Cũng theo Ông Đặng Đình Lớp, PGĐ Sở Tài nguyên và Môi trường Quảng Ninh đưa ra một số đề xuất và kiến nghị như: Hoàn thiện hệ thống chính sách, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tăng cường bộ máy quản lý các cấp, tăng cường công tác kiểm soát ô nhiễm vùng bờ, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ biển, tăng cường hợp tác liên cấp.










