Đánh giá định lượng tỷ lệ lao động tri thức trong nền kinh tế Việt Nam
Phương pháp
Sự xuất hiện của kinh tế tri thức đã được chỉ ra lần đầu tiên vào năm 1962 từ những nghiên cứu của Fritz Machlup về tỷ lệ lao động và sản phẩm gắn liền một cách chủ yếu với tri thức trong nền kinh tế nước Mỹ, cụ thể là các hoạt động: Nghiên cứu khoa học (cơ bản, ứng dụng) và triển khai; giáo dục và đào tạo (kể cả đào tạo tiếp tục và đào tạo lại); thông tin đại chúng (xuất bản, báo chí, truyền thanh, truyền hình...).
Điều đáng chú ý nhất là không phải bản thân giá trị của các chỉ tiêu lao động tri thức và sản phẩm tri thức mà chính là sự gia tăng của các chỉ tiêu đó nhanh gấp hai lần so với sự gia tăng của GNP, chứng tỏ các hoạt động gắn liền với tri thức có xu hướng ngày càng trở nên quan trọng hơn trong nền kinh tế. Các hoạt động đó tạo thành một khu vực công nghiệp mà Machlup gọi là công nghiệp tri thức.
Công trình đo lường kinh tế tri thức đáng chú ý sau đó là của Marc Porat (1974-1976), trong đó xét các chỉ tiêu lao động và sản phẩm trên phạm vi toàn quốc và đối với tất cả các hoạt động xử lý thông tin. Các hoạt động này tạo thành khu vực thông tin của nền kinh tế mà đối với nước Mỹ vào khoảng năm 1970 chiếm chừng một nửa về lao động cũng như về sản phẩm. Do xét chung "xử lý thông tin" chứ không phải "tri thức", khu vực được gọi là thông tin của nền kinh tế đã bao gồm một phần rất lớn các hoạt động dịch vụ đơn thuần như bán hàng, phục vụ nhà hàng, khách sạn, dịch vụ tài chính... và do đó trở nên quá lớn nếu chúng ta chỉ muốn nói đến “kinh tế tri thức”. Việc xét chung này còn dẫn đến tình trạng không phân biệt được sự gia tăng nạn quan liêu giấy tờ với sự gia tăng các hoạt động xử lý thông tin theo nghĩa tiến bộ. Theo W.E. Halal (Technological Forecasting and Social Change - TFSC, 1993), tổng số lao động thuộc khu vực thông tin ở các nước phát triển cao được đánh giá là 70%, nếu bỏ đi những lao động dịch vụ đơn thuần để còn lại chỉ là lao động tri thức thì chỉ là 30% (tổng số lao động cả nước). Tuy nhiên, do đơn giản khi áp dụng mà vẫn tạo ra được một hình ảnh có ý nghĩa về độ lớn và nhịp độ phát triển của nền kinh tế theo hướng tiến đến kinh tế tri thức, phương pháp "khu vực thông tin" này đã được nhiều nhà nghiên cứu áp dụng để đánh giá sự phát triển của kinh tế thông tin ở một số nước. Bảng 1 cho biết các số liệu về tỷ lệ (%) lao động thông tin ở một số nước công nghiệp mới được đưa ra trong công trình của R.L. Katz năm 1988 (dẫn theo D.-J. Kim, TFSC, 1994).
![]() |
Năm 1996, Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã đưa ra khái niệm "kinh tế dựa trên tri thức" hay "kinh tế tri thức" thể hiện sự thừa nhận rộng rãi trên thế giới về vai trò ngày càng gia tăng của sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trong kinh tế. Đồng thời, Tổ chức này đã đưa ra một bộ chỉ tiêu đặc trưng cho kinh tế tri thức, song cũng lưu ý ngay từ đầu rằng, nó chỉ có thể cung cấp một cái nhìn bộ phận về thực thể kinh tế này: Chúng chưa chỉ ra được mối quan hệ nhân quả giữa các nhân tố xác định kinh tế tri thức và chưa được sắp xếp có thứ bậc để làm rõ mức độ quan trọng khác nhau của các nhân tố đó. Theo một báo cáo năm 1999, bộ chỉ tiêu đó gồm các nhóm nhân tố (theo sự tổng hợp của chúng tôi): Các ngành dựa trên tri thức, đầu tư cho sản xuất tri thức, chất lượng nguồn lực con người, công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), chính sách khoa học và công nghệ (KH&CN).
Còn Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) trong một báo cáo cuối năm 2000, đã đưa ra một tập hợp chỉ tiêu cho phép đánh giá tất cả các nền kinh tế theo xu hướng tiến đến kinh tế tri thức chứ không chỉ là quy mô của những nền kinh tế tri thức đã xuất hiện và đang phát triển. Các chỉ tiêu này được sắp xếp thành một ma trận mà qua đó chúng ta có thể thấy (ở một mức độ nào đó) tính hệ thống của các chỉ tiêu và mối liên kết giữa chúng (hơn là bộ chỉ tiêu của OECD) (bảng 2).
![]() |
Trong số các chỉ tiêu đã nêu, cốt yếu nhất là các chỉ tiêu về cường độ tri thức cho phép đo trực tiếp mức độ thành đạt về kinh tế tri thức (đã tồn tại hay đang tiến đến) của một quốc gia. Trong đó, có hai chỉ tiêu cơ bản là: Số phần trăm tổng lao động quốc gia là lao động tri thức; số phần trăm GDP được đóng góp từ các ngành công nghiệp tri thức. Đây cũng là các chỉ tiêu được xem xét trong phương pháp của Machlup (lao động và sản phẩm của công nghiệp tri thức) và của Porat (ở đây là lao động và sản phẩm xử lý thông tin).
![]() |
Để xác định đâu là lao động tri thức, APEC đã sử dụng các tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) là ISCO-68 (năm 1968) hay ISCO-88 (năm 1988). Phân loại năm 1968 hiện vẫn được sử dụng ở nhiều nước. Phân loại này bao gồm 10 nhóm lớn, trong đó hai nhóm đầu (0/1 và 2) bao gồm tất cả các nghề nghiệp theo APEC là "lao động tri thức" (bảng 3).
Còn các ngành công nghiệp tri thức, theo APEC, bao gồm:
- Một số ngành công nghiệp về bản chất là những ngành nhiều tri thức (ví dụ những ngành chế tạo mà trong đó R&D và thiết kế chiếm tỷ lệ lớn trong tổng chi phí sản xuất).
- Những ngành công nghiệp nhiều tri thức: Thông tin - truyền thông, hàng không - vũ trụ, môi trường, thiết kế sinh học, cơ - điện tử.
- Những ngành dịch vụ nhiều tri thức: Tài chính, nghe - nhìn, truyền thông, thiết kế, xử lý dữ liệu, tư vấn.
- Có thể bao gồm cả một số hiểu biết cổ truyền và địa phương, các tài sản văn hóa; một số ngành công nghiệp sơ cấp ngày nay bắt đầu sử dụng nhiều tri thức.
![]() |
Trong bảng 4 là các kết quả tính toán về cường độ tri thức của một số nền kinh tế được xét trong báo cáo của APEC năm 2000, trong đó có một số nước không có đủ số liệu để tính giá trị các sản phẩm công nghiệp tri thức, Trung Quốc chưa có cả hai kết quả về công nghiệp tri thức cũng như về lao động tri thức năm 1992 và khoảng năm 1997; có ghi các kết quả về Việt Nam (trình bày ở cuối bảng).
Kết quả
Suy đoán theo phương pháp tương tự lịch sử
Trong một công trình dự báo về KH&CN Việt Nam đến năm 2020 thực hiện theo yêu cầu của Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam năm 1996, chúng tôi đã áp dụng phương pháp tương tự lịch sử, lấy Hàn Quốc làm hệ quy chiếu trên cơ sở khoảng cách về năng lực công nghệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc được xác định là 25 năm (căn cứ vào một số chỉ tiêu phát triển kinh tế, KH&CN: GDP, GDP trên đầu người, đầu tư cho R&D...). Nếu như nhận xét này cũng có thể áp dụng cho khu vực thông tin thì tỷ lệ lao động thông tin trong tổng lực lượng lao động của nước ta vào khoảng năm 2000 có thể suy đoán là khoảng (10,1 + 14,6)/2 = 12,3% dựa trên các số liệu đã biết về Hàn Quốc giới thiệu trong bảng 1. Nếu chúng ta lại tính lao động tri thức thay vì lao động thông tin theo tỷ lệ như Halal đã nêu đối với các nước phát triển cao là 3/7 (chưa kể rằng đối với các nước đang phát triển thì phải nhỏ hơn 3/7) thì tỷ lệ lao động tri thức trong tổng lao động của nước ta hiện nay nhiều nhất là vào khoảng 12,3 x 3/7 5,3%, nghĩa là gần bằng Thái Lan năm 1992 (5,9%) (bảng 4). Những tính toán ít suy đoán hơn và các tính toán trực tiếp (sẽ trình bày dưới đây) cũng cho con số vào cỡ 5%, chứng tỏ những ước tính thô sơ không phải là không có ý nghĩa.
Đánh giá gián tiếp từ các số liệu thống kê hiện có
![]() |
Hiện tại, chúng ta không có các số liệu thống kê cho phép tiến hành các tính toán trực tiếp về lao động tri thức theo đúng như phân loại nghề nghiệp của ILO cho một thời gian tương đối dài (riêng về hai năm 2001 và 2002 có thể thu được các kết quả tính toán trực tiếp như sẽ trình bày ở dưới). Tuy nhiên, có thể tiến hành các ước tính gián tiếp cho giai đoạn 1996-2002 dựa trên các số liệu về lao động kể từ công nhân kỹ thuật (CNKT) có bằng trở lên theo các tài liệu thống kê của Nhà xuất bản Lao động - Xã hội (bảng 5).
Bảng 5 cho thấy, toàn bộ lực lượng lao động kỹ thuật của ta ở mọi trình độ trong cả nước hiện còn ở mức thấp - khoảng 12,6% vào năm 2002. Khó có khả năng một nửa số này (6,3%) là lao động tri thức. Nếu cho rằng tỷ lệ lao động tri thức trong số đó có thể là khoảng 2/5 thì con số 5% đã suy đoán ở trên theo phương pháp tương tự lịch sử phù hợp với ước tính này. Tổng lao động tri thức năm 2002 suy ra từ đó sẽ là 5.128.149 x 2/5 ð 2 triệu người (thời gian lao động toàn phần). Con số chính xác hơn theo các tính toán trực tiếp trình bày trong mục sau (thật bất ngờ), cũng vào cỡ như vậy (có nghĩa là tỷ lệ để từ lao động là CNKT có bằng trở lên suy ra lao động tri thức có thể lấy là 2/5).
Đánh giá trực tiếp tỷ lệ lao động tri thức trong tổng lực lượng lao động của cả nước
![]() |
Từ các tài liệu thống kê mới nhất về lao động - việc làm của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội có được (2 năm 2001 và 2002), có thể dựng lên "Ma trận ngành kinh tế quốc dân - trình độ chuyên môn kỹ thuật" dùng để đánh giá định lượng tỷ lệ lao động tri thức trong tổng lực lượng lao động của Việt Nam theo phương pháp của APEC.
Theo cách tiếp cận của APEC, ta sẽ sử dụng phân loại nghề nghiệp của ILO (năm 1968) và lấy các loại lao động trong nhóm lớn 0/1 và nhóm lớn 2 là "lao động tri thức" (xem bảng 3). Vì phân loại nghề nghiệp của ta hiện nay theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội không giống như phân loại của ILO, cho nên để tiến hành các tính toán, trước hết chúng ta phải xác định sự tương ứng giữa hai cách phân loại, sau đó chỉ ra những phần cần bổ sung do sự sai khác giữa hai cách phân loại để tăng thêm độ chính xác của các kết quả tính toán cuối cùng (khi nói độ chính xác, ta ngầm hiểu cách tiếp cận của APEC được xem là "chính xác"). Các tính toán chi tiết đã tiến hành đưa đến con số trực tiếp gần đúng có thể chấp nhận được về tỷ lệ lao động tri thức trong tổng lực lượng lao động của cả nước năm 2001 là khoảng 4,9% và năm 2002 là khoảng 5%, giống như đã ước tính theo cách tương tự lịch sử hay sử dụng gián tiếp các lao động từ CNKT có bằng trở lên. Tổng lao động tri thức của cả nước vào thời gian này là khoảng 2 triệu người (thời gian lao động toàn phần).
Một số nhận xét
• Có thể thấy rất rõ là lao động có kỹ thuật (và tương ứng là lao động tri thức) được tập trung ở mức cao tại các thành phố lớn (ban đầu là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh và gần đây có thêm Đà Nẵng). Trong khi đó, tỷ lệ của loại lao động này trên toàn quốc lại tăng chậm - chỉ thêm được 4% trong 6 năm; nếu là lao động tri thức thì trong hai năm liền 2001 và 2002 không thay đổi. Vì nhu cầu về loại lao động này đang tăng nhanh mà khả năng cung cấp lại tăng chậm, thậm chí không tăng đối với lao động tri thức vào thời gian gần đây, cho nên các trung tâm kinh tế - văn hóa lớn đã hút người có kỹ thuật từ các nơi khác và như vậy phát triển kinh tế - xã hội ở những nơi bị hút người đi chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực nếu như chúng ta đã công nhận rằng tri thức phải có vai trò ngày càng quan trọng trong phát triển. Tăng cường đào tạo lao động có kỹ thuật và mở rộng hơn nữa các hoạt động KH&CN, y tế, văn hóa, giáo dục rõ ràng phải là một nhiệm vụ lớn trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tiến đến kinh tế tri thức. Đối tượng được chú ý trong việc đào tạo này phải là đông đảo người lao động từ tất cả các cơ sở sản xuất (hiện có tới 80% tổng lao động toàn quốc là không có chuyên môn kỹ thuật) chứ không thể chỉ tập trung vào những trình độ cao và thật cao.
• Chúng ta có thể tính ra tương đối chính xác tỷ lệ lao động tri thức trong tổng lực lượng lao động cả nước cho bất kỳ tỉnh, thành phố nào và vào một năm nào đó bằng cách lấy số liệu về tỷ lệ lao động từ CNKT có bằng trở lên trong các tài liệu thống kê về lao động - việc làm của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội nhân với 2/5 n
Tài liệu tham khảo
1. Kinh tế tri thức, Đặng Mộng Lân. Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2001 (tái bản 2002).
2. Các chuyên đề 1-4, Đề tài KX.08.02 (Chủ nhiệm đề tài: GS Vũ Đình Cự), Hà Nội, 2004 (đã nghiệm thu năm 2005).
Nguồn: tchdkh.org.vn, tháng 06/2006














