Dân số và môi trường
Cùng với dân số tăng nhanh, nhu cầu lương thực của loài người cũng tăng lên. Lương thực do nguồn thu hoạch mùa màng đưa lại, xong dân số tăng nhanh xung đột gay gắt với tài nguyên đất đai. Tốc độ tăng lương thực không đuổi kịp tốc độ tăng dân số, khiến cho việc cung cấp lương thực trên thế giới ngày càng trở nên căng thẳng.
Để việc cung cấp lương thực đáp ứng tốc độ tăng trưởng dân số, người ta phải dùng nhiều biện pháp, như phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật lớn để nâng cao sản lượng của một diện tích, hoặc mở rộng diện tích khai hoang. Những biện pháp này đều phải trả giá bằng sự phá hoại môi trường. Vì dùng phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật nhiều sẽ làm cho đất đai khô cằn, môi trường bị ô nhiễm, lượng thuốc diệt côn trùng tăng lên cuối cùng làm cho sản lượng thu hoạch giảm thấp.
Tăng trưởng dân số còn gây nên nhu cầu tiêu dùng về gỗ, khiến cho rừng bị chặt phá nghiêm trọng, diện tích rừng bị giảm xuống. Rừng là kho báu màu xanh để đảm bảo chất lượng môi trường củ con người, rừng cũng là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ sinh thái lục địa. Từ năm 1950 đến nay, 1 tỷ ha rừng đã bị chặt phá, diện tích rừng nguyên sinh chỉ còn một nửa. Trong thập kỷ 80, ở Braxin, Indonexia… rừng nhiệt đới mỗi năm bị chặt phá 2 triệu ha. Bờ Biển Ngà là một trong những vùng có tỷ lệ tăng dân số cao nhất thế giới. Năm 1987, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của vùng này là 3%, mỗi năm tỷ lệ diện tích rừng bị tổn thất là 5,9%.
Nước đối với nhân loại là tài nguyên cần thiết không thể thiếu. Nước trên trái đất vô cùng dồi dào. Trước đây loài người chưa bao giờ cảm thấy thiếu nước. Nhưng ngày nay Trung Quốc do tăng trưởng dân số nhanh khiến cho nguồn nước trở nên vô cùng căng thẳng. Dân số tăng nhanh ảnh hưởng đến tổng lượng tài nguyên nước. Việc vây lấn mặt hồ biến thành ruộng đã làm giảm diện tích nước bề mặt. Khai thác nước ngầm quá mức cũng làm giảm trữ lượng nước. Nước phế thải công nghiệp gây ô nhiễm, khiến cho nguồn nước ngày càng trở nên thiếu hơn.
Dân số tăng nhanh còn khiến cho việc cung cấp năng lượng khó khăn, rút ngắn thời gian tiêu hao các đá hóa dầu. Vì năng lượng là cơ sở quan trọng để con người tiến hành sản xuất và nâng cao mức sống, cho nên mức tiêu hao năng lượng đã trở thành tiêu chí để đo trình độ tiến bộ và văn minh của nhân loại. Trong nguồn năng lượng hiện nay đang sử dụng có đến 95% là năng lượng hóa thạch. Theo thống kê thì vào giữa thập kỷ 80, lượng tiêu hao năng lượng toàn thế giới quy ra than tiêu chuẩn mỗi năm ước tính khoảng 11 tỉ tấn nhiên liệu sẽ dẫn đến ô nhiễm môi trường.
![]() |
Dân số tăng nhanh cũng gây nên sự khai thác quá mức tài nguyên sinh vật, khiến cho số lượng và các loài sinh vật giảm thấp, chủng loại các loài sinh vật bị tiêu diệt nhiều.
Ngày nay loài người đang đứng trước nguy cơ về môi trường mà trước đây chưa từng gặp, như hiện tượng mưa axit, hiệu ứng nhà kính, tầng ozon bị phá hoại… không vấn đề nào là không quan hệ đến gia tăng dân số, môi trường sinh thái bị phá hại đã đưa lại những hậu quả khủng khiếp, nguy cơ sinh thái sẽ trở thành mối hiểm họa lớn nhất cho nhân loại trong thế kỷ XXI. Con đường cứu thoát duy nhất là loài người hãy tự kiềm chế mình, bắt đầu từ bây giờ phải cố gắng khống chế tốc độ tăng trưởng dân số và trong một thời gian ngắn phải dần dần đưa dân số tăng trưởng xuống số 0.
Có vẻ như có mối quan hệ trái ngược giữa tỷ lệ trưởng dân số của mỗi quốc gia với các tiêu chuẩn sống của họ. Tiêu chuẩn sống là một khái niệm trừu tượng nhằm định lượng hóa chất lượng cuộc sống của người dân. Tiêu chuẩn sóng là một khái niệm khó định lượng bởi vì các nền văn hóa khác nhau có những thái độ và cách nghĩ khác nhau về những gì được cho là tốt đẹp.
Tuy nhiên nhiều yếu tố có thể bao gồm trong sự phân tích các tiêu chuẩn sống: thu nhập kinh tế, tình hình sức khỏe và khả năng thay đổi địa vị của mình trong xã hội. H.3.1 Liệt kê các yếu tố quan trọng quyết định tiêu chuẩn sống và cho thấy sự tương phản giữa ba nước có những tiêu chuẩn sống rất khác nhau (Hoa Kỳ, Argentina và Kenya). Trong hình 3.1 ta có thể thấy những chênh lệch lớn về kinh tế giữa những quốc gia kém phát triển. Thế nhưng người dân ở các quốc gia kém phát triển lại ao ước được hưởng các tiêu chuẩn sống của người dân ở các nước phát triển.
Các tiêu chuẩn về sức khỏe phản ánh nhiều mặt của tiêu chuẩn sống. Việc tiếp cận được với các thứ như chăm sóc y tế, nước uống an toàn, và thức ăn hoàn hảo được thể hiện bằng tuổi thọ trung bình. Tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh và tốc độ tăng trưởng của trẻ con. Hoa Kỳ và Argentina có cùng tuổi thọ trung bình (trên 70 tuổi) và sự dinh dưỡng hoàn hảo, Kenya có tuổi trọ trung bình thấp (52 tuổi), nhiều trẻ con suy dinh dưỡng (23% không đủ trọng lượng) và một tỷ lệ tử vong cao ở trẻ con (74/1000). Hoa Kỳ có tỷ lệ tử vong ở trẻ con thấp (6,6/1000).
Sau hết, trình độ giáo dục của dân chúng quyết định thể loại việc làm mà họ có thể kiếm được và khả năng cải thiện địa vị xã hội của mình. Nói chung nam giới có nhiều khả năng học hành hơn nữ giới, nhưng trình độ giáo dục của nữ giới có liên quan trực tiếp với số con mà họ sẽ có, do đó liên quan với phúc lợi kinh tế của gia đình. Gần như tất cả thiếu nữ ở Hoa Kỳ đều học tới cấp trung học trong khi 81% thiếu nữ ở Argentina cũng thế, còn ở Kenya thì chỉ có 22%. Rõ ràng có sự khác biệt to lớn giữa các tiêu chuẩn sống của các nước này. Điều mà những người dân Mỹ trung bình xem là mức nghèo thì có thể xem là sang trọng đối với một người trung bình ở Kenya.
Mức sống là một thước đo cho biết người sướng khổ ra sao. Không thể có một định nghĩa chính xác nhưng khi so sánh Hoa Kỳ, Argentina thì Kenya có tỷ lệ tăng trưởng dân số cao, tuổi thọ trung bình ngắn một tỉ lệ tử vong cao ở trẻ sơ sinh nhiều người không được ăn uống đầy đủ. Hơn thế nữa thu nhập của họ thấp và ít được học hành. Hoa Kỳ có một tỷ lệ tăng trưởng dân số thấp, tuổi thọ trung bình cao, tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh thấp và nhiều người ăn uống dư thừa. Người dân Mỹ có trình độ học vấn cao và mức thu nhập cao. Argentina thì đứng giữa hai mức này. Một điều thấy rõ là những vùng nào trên thế giới có sự tăng trưởng dân số nhanh chóng mặt thì vùng ấy có tiêu chuẩn sống thấp. Các khu vực đã phát triển trên thế giới (Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Úc và New Zealand) thì có sự sung túc và tăng trưởng dân số tương đối chậm chạp. Các quốc gia kém phát triển ở châu Phi, châu Mỹ La tinh, châu Á thường nghèo và có tỷ lệ tăng trưởng dân số cao, mặc dù không phải tất cả mọi trường hợp đều giống nhau nhưng sự nghèo khổ, tỷ lệ sinh sản cao, sức khỏe suy yếu và sự thiếu giáo dục có vẻ liên quan với nhau.









