Đầm hồ ở Thủ đô Hà Nội và các vấn đề đặt ra
Thủ đô Hà Nội là một biểu tượng của Việt Nam thu nhỏ lại về các kiểu hình thủy vực. Sông ngòi, hồ đầm đã tạo nên một vẻ đẹp đặc hữu của một vùng đất kinh kỳ đã có lịch sử 1000 năm văn hiến. Theo số liệu thống kê, hiện nay trong nội thành Hà Nội (trên địa bàn 9 quận) có khoảng 110 hồ và hồ chứa, trong đó có 15 hồ (loại hồ chứa) đã xây dựng hệ thống cửa chắn hoặc lắp đặt tuyến cống bao để tách nước thải và 02 hồ ở vườn Bách Thảo không nhận nguồn thải. 93 hồ còn lại đang trong giai đoạn cải tạo, xây dựng tuyến cống bao tách nước thải như hồ Văn Chương, Thương Mại, Ba Mẫu, Cầu Tình, Hồ Kim Liên và Linh Quang đang trong giai đoạn lập hồ sơ thiết kế kỹ thuật cải tạo hồ trong đó có hạng mục xây dựng tuyến thu gom nước thải riêng.
Hồ Tây là một hồ đồng bằng có nguồn gốc hình thành tự nhiên, diện tích hồ trải qua nhiều thiên niên kỷ có bị thu hẹp lại nay đã được bảo vệ và xử lý nước thải và xây dựng tuyến cống tách nước thải đổ vào hồ.
Hồ Hoàn Kiếm là một hồ được hình thành từ một nhánh của sông Hồng. Qua thời gian dài phát triển của Thành Thăng Long trước đây và ngày nay là Tp. Hà Nội, sự giao lưu giữa hồ và sông Hồng đã bị vùi lấp. nước thải và bùn cát do mưa cuốn đổ vào hồ đã làm lớp bùn sa lắng hàng trăm năm của hồ Hoàn Kiếm ngày một dày, cản trở việc lưu thông nước hồ với các nguồn nước ngầm, mực nước ngày một cạn kiệt, tính chất đa dạng của sinh học suy giảm.
Trước tình hình trên Hồ Hoàn Kiếm đã được tiến hành cải tạo. Trong khuôn khổ hợp tác giữa CHLB Đức và Việt Nam về nghiên cứu khoa học phát triển công nghệ giữa Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Bộ Liên bang về nghiên cứu đào tạo CHLB Đức đã ký kết văn kiện hợp tác với dự án phục hồi và ổn định bền vững hồ Hoàn Kiếm - Hà Nội, phía Đức đã đưa công nghệ hút bùn ngâm Sediturtle tiến hành tại hồ Hoàn Kiếm.
Nhìn lại thực trạng các hồ ở Hà Nội có thể thấy hệ thống các hồ ở đây hiện đang bị ô nhiễm do thường xuyên phải tiếp nhận một lượng lớn nước thải của thành phố đổ vào chưa qua xử lý, lớp bùn đáy khá dày với độ sâu từ 0,5m đến 1,5m. Lưu lượng nước thải chảy vào hồ đã vượt quá khả năng tự làm sạch các hồ. Sự ô nhiễm đã làm suy thoái chất lượng nước, thiếu oxy và làm tăng trầm tích trong hồ. Nồng độ các chất hữu cơ và vô cơ dinh dưỡng vượt quá chỉ tiêu cho phép. Tính chất đa dạng sinh học của các thủy vực bị suy thoái.
Trước hiện trạng trên, việc nghiên cứu cải tạo các hồ ở Hà Nội nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm nước hồ, điều hòa nước mưa, giảm thiểu úng ngập và cần đưa hồ trở lại với đúng bản chất của nó: hồ phải có sự sống, có sinh vật hoa lá, là nơi duy dưỡng sự thư giãn của nhân dân Thủ đô, giữ gìn, cải tạo, phát triển hồ là một việc làm hết sức cấp thiết.
Trong nhiều năm qua, Hội các ngành sinh học Hà Nội luôn quan tâm tới các hoạt động giảm thiểu ô nhiễm nước hồ, bảo vệ sự đa dạng sinh học của thủy vực, tôn tạo vẻ đẹp thiên nhiên của hồ. Theo đó, ngoài các biện pháp kỹ thuật nhằm giải quyết các vấn đề ô nhiễm nước hồ thường được áp dụng như bảo vệ hồ khỏi nguồn nước thải chưa qua xử lý bằng các cửa chắn nước thải hoặc các phương pháp xử lý nước thải phù hợp; nạo vét bùn đáy… còn cần phải luôn luôn chú trọng các biện pháp sinh học bảo vệ sự sống của hồ, bảo vệ hệ sinh thái trong hồ.
Các yếu tố vô cơ đó trong nước hồ là các chất dinh dưỡng cho các sinh vật quang hợp như thực vật (thực vật thủy sinh, các loài vi tảo) và vi khuẩn. sinh khối của các sinh vật quang hợp là nguồn thức ăn cho động vật không xương (động vật thân mềm, hai mảnh vỏ, giáp xác) và các động vật không xương lại là thức ăn của cá và động vật khác. Sự phân giải các chất hữu cơ do hoạt động của vi sinh vật, tất cả tạo nên một chu trình khép kín của hoạt động sống.
Chính vì vậy, khi tiến hành xử lý ô nhiễm ao hồ, ngoài các hoạt động vệ sinh môi trường, nạo vét bùn lầy cần làm tăng độ trong của thủy vực. Việc khảo sát điều tra hệ sinh thái của thủy vực cho phép hoặc không có phép sử dụng các chế phẩm sinh học nhằm giảm thiểu sự ô nhiễm mùi, tăng cường hoạt động của vi sinh vật nền đáy, giảm thiểu sự phát triển của vi tảo độc hại duy trì sự sống của các loài cá, nhuyễn thể hai mảnh vỏ có trong hồ. Sử dụng hệ thống các thực vật thủy sinh có hoa để làm trong nước, tạo nên màu sắc cho cảnh quan hồ.
Các chế phẩm sinh học được sử dụng trên cơ sở tuyển chọn các vi sinh vật có hoạt tính phân giải pro-tein, tinh bột, xelluloza cao có khả năng phát triển trong thủy vực. Tất cả các hoạt động của các nhóm sinh vật đều được tiến hành đồng bộ và thứ tự, như vậy sẽ đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững của hệ sinh thái trong hồ.
Hiện nay, trên thế giới để bảo vệ các nguồn gene trong các thủy vực, các nhà khoa học chú trọng đến việc điều tra, phân lập, phân loại các loài sinh vật quý hiếm và nuôi giữ chúng. Thành phố Hà Nội đã được 1000 năm tuổi và trên mảnh đất này, trong các thủy vực kín, ít giao lưu luôn cất giữ các loài sinh vật đặc hữu (endem-ic).
Việc bảo vệ các đầm hồ, chống sự ô nhiễm nguồn nước bằng các biện pháp sinh học và các biện pháp khác nhau cần có mối quan hệ hợp lý và gắn bó, cần bảo vệ các nguồn gene quý hiếm của các thủy vực Hà Nội. Chúng ta cần cố gắng để làm mặt nước hồ Hà Nội luôn trong sạch, cảnh quan thanh bình, để giữ gìn bản sắc của một Thủ đô Hà Nội 1000 năm tuổi.








