Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 21/04/2017 19:59 (GMT+7)

Đảm bảo quyền hưởng dụng của các chủ rừng là hộ gia đình và cộng đồng

Ông Hứa Đức Nhị, Chủ tịch Hội Chủ rừng Việt Nam, cho biết, hiện nay cả nước có gần 1,5 triệu hộ gia đình, cá nhân (1.481 nghìn) được giao đất giao rừng, cùng với hàng trăm (632) các tổ chức là các ban quản lý rừng đặc đụng, Ban quản lý rừng phòng hộ, các công ty lâm nghiệp và các tổ chức quản lý các khu rừng nghiên cứu khoa học và đào tạo. Tuy nhiên, các quy định trong luật 2004 và trong Dự thảo luật sửa đổi lại chỉ đề cập chủ yếu đến các chủ rừng là các hộ gia đình, cá nhân, các cộng đồng dân cư được giao đất giao rừng. Như vậy, rất nhiều các hộ gia đình, cá nhân làm rừng hiện nay nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của các quy định trong luật, như: những người trồng rừng trên đất của chủ rừng khác theo các quy định về khoán lâu dài (50 năm) theo Nghị định 01của Chính phủ (1992). Trong khi đó, số các hộ gia đình được giao khoán hay những người nhận khoán làm rừng hay bảo vệ rừng theo nghị định 135 sau này là rất nhiều và hiện cả những chủ rừng giao khoán và người nhận khoán đều gặp không ít những khó khăn và bất cập trong quản lý. Ngoài ra, còn phải kể tới những cộng đồng dân cư đã gắn bó với rừng từ nhiều đời nay, nhưng những khu rừng đó hiện đã là rừng của các công ty lâm nghiệp, các ban quản lý rừng hay của các chủ rừng khác và họ hiện là người ngoài cuộc và trở thành đối tượng xâm hại rừng tiềm tàng của các cơ quan quản lý và chủ rừng.

Đồng quan điểm trên, ông Lương Quang Hùng, Trung tâm Vì con người và Rừng tại Việt Nam, cho rằng, cộng đồng dân cư cần có quyền tương tự như chủ rừng là ban quản lý rừng đặc dụng và rừng phòng hộ khi được luật quy định “ Được ngân sách nhà nước đầu tư bảo vệ và phát triển rừng” (Điều 46). Ông Hùng đề nghị bổ sung quy định “được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng rừng” vào khoản đ, Điều 46, bởi theo ông, thực tế ở nhiều địa phương, cộng đồng chỉ được giao những khu rừng nghèo đã bị khai thác cạn kiệt, do đó, để đầu tư sức lao động dài hạn vào rừng cộng đồng trước khi những lợi ích vật chất có thể được khai thác, người dân cần được thế chấp, cho thuê hoặc góp vốn kinh doanh từ rừng được giao.

Hơn nữa, cũng theo ông Hùng, Nhà nước cần có cơ chế tín dụng ưu đãi cũng như chính sách hỗ trợ đào tạo, phát triển thị trường, ứng dụng KHKT và công nghệ cho các cộng đồng và hộ gia đình liên kết trồng rừng theo hướng gỗ lớn và gỗ có chứng chỉ, đặc biệt cho các năm ở cuối chu kỳ (Điều 79) để giúp họ có thể kéo dài chu kỳ sản xuất, vì mặc dù quản lý đến 46,21% diện tích rừng trồng của cả nước nhưng so với các chủ rừng khác, các cộng đồng và hộ gia đình không được đào tạo bài bản, tiềm lực kinh tế hạn chế.

Ở một khía cạnh khác, ông Hoàng Xuân Thủy, Phó Giám đốc Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) đề xuất việc thừa nhận “khu bảo tồn cộng đồng” trong hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên. Đây là khái niệm khá mới nhưng đã được 17 quốc gia trên thế giới thừa nhận, trong đó tại khu vực Đông Nam Á khu bảo tồn cộng đồng đã được thiết lập tại Thái Lan, Campuchia, Malaysia, Philippin Theo ông Thủy, hiện nay trên thế giới có 209.000 khu bảo tồn – chiếm 15,4% diện tích trên toàn thế giới, trong đó, quản lý cộng đồng chỉ chiếm 1%. Tuy nhiên, cùng với xu hướng đa dạng hóa nguồn lực tài chính cho bảo tồn thiên nhiên, tỷ lệ các khu bảo tồn và diện tích quản lý bởi cộng đồng đang có xu hướng tăng lên.

Theo ông Thủy, ở Việt Nam, việc thừa nhận các khu bảo tồn cộng đồng quản lý sẽ góp phần thúc đẩy mục tiêu xã hội hóa ngành lâm nghiệp và xã hội hóa về bảo tồn đa dạng sinh học, đảm bảo sự tham gia cũng như nâng cao nhận thức của cộng đồng địa phương trong công tác bảo vệ rừng và bảo tồn thiên nhiên. Bên cạnh đó, điều này cũng giúp mở rộng diện tích bảo tồn nhưng giảm chi phí đầu tư và quản lý của nhà nước, tạo nên các hành lang xanh, giúp giảm sức ép lên các khu bảo tồn trọng yếu và hỗ trợ chính phủ đạt được các mục tiêu của cam kết quốc tế như mục tiêu Aichi trong khuôn khổ Công ước Đa dạng sinh học CBD và công ước khung về biến đổi khí hậu (UNFCCC)…  Hơn nữa, ông Thủy cho rằng, thừa nhận các khu bảo tồn cộng đồng sẽ giúp đảm bảo lợi ích chính đáng và nâng cao khả năng tiếp cận của người dân với nguồn tài nguyên; cải thiện mối quan hệ trong quản lý tài nguyên giữa các bên, duy trì kiến thức văn hóa bản địa, hài hòa lợi ích giữa bảo vệ rừng với đời sống văn hóa, tinh thần và góp phần đảm bảo sinh kế cho người dân địa phương.

Ngoài những điểm chính trên, các đại biểu dự hội thảo đã có những góp ý cụ thể vào các điều trong dự thảo Luật. Dự thảo này sẽ được trình Quốc hội trong kỳ họp vào tháng 5/2017.

Xem Thêm

Cao Bằng: Đẩy mạnh hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội
Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội có vai trò quan trọng nhằm bổ sung thêm những luận cứ khoa học, cơ sở thực tiễn một cách khách quan, tạo ra sự đồng thuận giữa các cơ quan quản lý, đối tượng quản lý và cộng đồng xã hội, đồng thời tạo ra tính khả thi, hiệu quả khi kết quả tư vấn, phản biện được áp dụng vào thực tiễn đời sống.
Dự án Vành đai 4 - Vùng Thủ đô phải minh bạch phương án tài chính
Khẳng định đầu tư theo phương thức đối tác công tư(PPP) đối với dự án thành phần 3 đầu tư xây dựng đường cao tốc thuộc DA Đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội là cần thiết, chuyên gia lưu ý, Nhà nước phải minh bạch phương án tài chính, có phương án tổ chức giao thông rõ ràng, nhất là đối với các phương tiện liên tỉnh bắt buộc phải đi qua Vành đai 4 để bảo đảm quyền lợi nhà đầu tư.
Các nhà khoa học góp ý cho Dự án Vành đai 4 – Vùng Thủ đô
Ngày 12/9, Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (LHHVN) phối hợp với Tổng hội Xây dựng Việt Nam và Hội Khoa học và kỹ thuật Cầu đường Việt Nam tổ chức Hội thảo "Tác động của việc xây dựng Dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc theo phương thức đối tác công tư thuộc Dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội".
Nâng cao hiệu quả công tác tư vấn phản biện của Liên hiệp hội Việt Nam
Thời gian qua Liên hiệp Hội Việt Nam (LHHVN) đã chủ trì tổ chức thực hiện nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội (TV, PB &GĐXH) rất sôi nổi. Rất nhiều cuộc toạ đàm, hội thảo đã được tổ chức, các hội thành viên, các tổ chức trực thuộc đã đóng góp được những ý kiến rất phong phú, bổ ích.
Phát huy hiệu quả hoạt động tư vấn phản biện và giám định xã hội
Hoạt động TVPB&GĐ XH là hoạt động mang tính xã hội, độc lập, khách quan, do trí thức đóng góp trí tuệ, cung cấp cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn cho Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền làm cơ sở đánh giá, phân tích và quyết định các vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách quan trọng và những chương trình, dự án lớn có liên quan về KH&CN, GD&ĐT và chính sách xây dựng đội ngũ trí thức.
Liên hiệp Hội Sơn La: Đẩy mạnh hoạt động tư vấn phản biện
Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội có vai trò quan trọng nhằm bổ sung thêm những luận cứ khoa học, cơ sở thực tiễn một cách hiện thực, khách quan, tạo ra sự đồng thuận giữa các cơ quan quản lý, đối tượng quản lý và cộng đồng xã hội, tạo ra tính khả thi, hiệu quả khi áp dụng vào thực tiễn đời sống.
Phát triển nhà ở xã hội: Cần bổ sung cụ thể vào Dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi)
Trong tờ trình về dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) gửi Thủ tướng Chính phủ mới đây, Bộ Xây dựng cho biết, nhiều năm qua, việc chăm lo giải quyết nhà ở cho người dân luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm quan tâm và xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Tin mới