Củi – sinh lễ hứa hôn của người Giẻ Triêng
Như nhiều dân tộc khác ở Trường Sơn Tây Nguyên, người Giẻ Triêng vốn theo chế độ mẫu hệ. Tuy ngày nay, chế độ mẫu hệ đã lùi dần vào quá khứ, song nó vẫn còn để lại khá nhiều dấu ấn rõ nét. Người phụ nữ vẫn còn giữ vai trò quan trọng trong phân công lao động và các lễ thức tín ngưỡng. Trong hôn nhân, từ một cô gái trưởng thành đến tục ở rể đều phảng phất dấu vết của chế độ mẫu hệ một thời thịnh đạt, có lẽ đó là cội nguồn sâu xa đã làm nên “củi hứa hôn” và tục bắt chồng.
Khi các cô gái Giẻ Triêng đến tuổi trưởng thành, họ có quyền để ý để chọn cho mình một đối tượng để trở thành chồng mình sau này. Từ trong sâu thẳm của trái tim, cô gái luôn muốn tìm trong đám trai làng một người để trao duyên, mẫu người đó phải là: “Em tìm những chàng trai vắng nơi ăn uống / Lại thường có mặt nơi việc chung của làng/ Xà nhà chàng xếp đầy đầu thú Bếp nhà chàng xếp đầy xương cá to”.
Đến lúc có ánh mắt nào đấy đáp lại, ngoài những buổi lên nương rẫy, hái măng, hái nấm, cô gài vào rừng tìm cho bằng được cây Loang sa hay còn gọi là cây Dẻ. Thân Dẻ tròn rắn rỏi nhưng thớ gỗ dọc dễ chẻ, cháy đượm mà để lại ít tro. Nếu hiếm quá có thể dùng gỗ hoa sữa thay thế, ngoài ra không được dùng gỗ loại cây khác. Việc chọn củi và thao tác làm củi rất cẩn thận như lúc tra lúa, tỉa bắp. Họ chọn được một chỗ đẹp trong nhà để làm nơi cất giữ củi. Động thái này báo hiệu cho cha mẹ, người thân biết rằng cô gái đã lo bắt chồng được rồi. Mọi người đều rất tôn trọng và vui vẻ với dấu hiệu đó. Vị trí để củi đã có, hàng ngày cô gái đều dành thời gian để kiếm thêm củi, các thanh củi được cưa ra từng khúc, dùng rìu bửa ra để gùi về. Độ dài thanh củi luôn tuyệt đối là 0,9 mét, đây là điều thắc mắc mà từ xưa đến nay vẫn chưa có câu trả lời, có lẽ theo quan niệm dân gian, người phụ nữ làm gì cũng gắn với con số 9, còn đàn ông gắn với số 7. Khi củi trong nhà nhiều lên và cô gái đã nhắm được chàng trai nào đó, cô chủ động nói với cha mẹ về ước muốn bắt chồng. Họ chọn thời điểm thích hợp để báo với già làng, tìm người mai mối, nếu được già làng cho phép và giúp đỡ thì quá trình hôn nhân sẽ diễn ra thuận lợi, nhanh chóng, nhiều khi có cô gái chỉ mới 15-16 tuổi.
Trước lễ cưới, cô gái tỏ tình bằng việc dành dụm những sản vật đầu mùa như bắp, dưa, mía… và tranh thủ mọi cơ hội để tặng cho chàng trai. Người con trai hiểu đó là biểu hiện thiêng liêng của tình yêu nên cũng tìm cách tặng lại cô gái những xâu thịt nướng, những ống rượu ngon trong những lễ hội, tiệc tùng. Sau đó người con gái hát những lời bóng gió, có nội dung than thân trách phận, muốn có hơi ấm vợ chồng và tìm cách nhờ người bạn hẹn người con trai đi ngủ ở nhà rông. Tuy nhiên, việc xin ngủ ở nhà rông, chỉ là việc giúp hai người hiểu nhau hơn và có giấc mơ phong tục dẫn đến hôn nhân thôi. Giấc mơ phong tục tại nhà rông là báo mộng tình yêu, nhưng nó phụ thuộc vào người con trai có mơ đúng sự thật hay không. Đây là ngõ duy nhất để anh đến với việc hôn nhân này. Người con gái cũng có thể mơ nhưng không có ý nghĩa quyết định.
Theo phong tục, người Giẻ Triêng chọn ngày lành tháng tốt để cõng củi sang nhà trai, chàng trai chuyển cho bố mẹ để họ xếp lượt đầu tiên. Công việc này giống như việc mở móng, động thổ xây nhà ở. Cuối ngày là trồng nêu theo phong tục, cũng là để thông báo cho mọi người biết, con trai, con gái họ đã có vợ có chồng. Những người thân và người quen được mời và được thông báo bằng cây nêu, nếu họ có bà con bên nào thì về bên đó. Nếu cô dâu chú rể cùng làng thì họ được tổ chức đám cưới cùng ngày, nếu khác làng thì thường tổ chức vào hai ngày khác nhau để họ có điều kiện vui với dân làng ở cả đôi nơi. Ngay sau đám cưới, theo hướng dẫn của nhà trai một số ít củi còn nguyên bó được nhà gái cõng đi cho các gia đình thân thiết bên chú rể và gia đình đã giúp nhiều rượu, thịt trong đám cưới.
Đối với củi hứa hôn, người Giẻ Triêng không bao giờ bán hay đổi chác. Đó là luật lệ bất thành văn được mọi người triệt để tuân theo. Có thể thấy “củi hứa hôn” không chỉ có ý nghĩa trong gia đình, mà còn có tính cộng đồng sâu sắc. Sau hành động chuyển củi, quan hệ lứa đôi coi như đã hợp pháp, được dân làng vui mừng công nhận. Kể từ đó họ có quyền được tự do đi lại, hẹn hò và cùng lên rẫy, lên nương.
Khác với củi bình thường, củi cưới có chiều dài nhất định được người con gái gởi gắm tình cảm, chăm sóc thường xuyên, việc đó thể hiện tình cảm thiêng liêng mà cô gái dành cho chàng trai. Nhìn từ khía cạnh này thì củi cưới đượm màu văn hoá tinh thần. Đồng thời củi cưới cũng có tiếng nói riêng của nó, sau khi cưới, củi được sử dụng sưởi ấm cho người già, được làm quà biếu cho người thân, thể hiện tình cảm của chú rể cô dâu đối với mọi người. Bên cạnh đó họ nhận được những lời khen, lời chúc tụng, và cả những giá trị thầm lặng cầu mong cho họ trăm năm hạnh phúc. Nhờ đó cô gái hoàn toàn có thể hoà nhập cộng đồng, có đầy đủ tư cách để tự hào về ông bà cha mẹ, dòng họ đã sinh thành nuôi dưỡng cô. Lúc này củi cưới lại mang màu sắc văn hoá tâm linh.
Như vậy, “củi hứa hôn” không chỉ là một tập tục, mà còn là một nét đẹp văn hoá, giáo dục độc đáo của người Giẻ Triêng cần được phát huy và nhân rộng trong cộng đồng. Nó đã nâng đỡ, củng cố giá trị đặc sắc về hôn nhân và gia đình cũng như vẻ đẹp của lao động. Nó chính là thước đo bản chất và nhân cách của những cô gái Giẻ Triêng, không những đánh dấu sự trưởng thành của cô gái, chàng trai về tuổi đời mà còn về khả năng tự chủ trong cuộc sống.
Tuy nhiên, hiện nay, những nét đẹp trong văn hoá truyền thống này của người Giẻ Triêng đã có dấu hiệu mai một. Sự tác động của văn hoá hiện đại và sự tiếp thu thiếu chọn lọc cũng như quá trình giao lưu văn hoá đã đánh mất đi những giá trị văn hoá độc đáo của người Giẻ Triêng, trong đó có “củi hứa hôn”. Dẫu vậy, cộng đồng dân tộc Giẻ Triêng vẫn cố lưu giữ nó như một di sản văn hoá độc đáo, một phong tục riêng biệt cho dân tộc mình, đồng thời là bức thông điệp tình yêu vô giá trong lễ cưới mà không có sính lễ nào có thể thay được.








