Cốt lõi của việc học là gì?
Có ý cho rằng người Trung Quốc nói chung hay ưa nhắc đến sự thành công trong suốt chiều dài của lịch sử lâu đời của họ, còn người Nhật nói chung thì hay ưa hỏi người ngoài về những cái chưa đạt của mình để học hỏi thêm. Nhưng có lẽ sự thật chưa hẳn như vậy, và tôi chẳng có lý do gì vơ đũa cả nắm để rơi vào một thứ kỳ thị. “Hiếu học”, nhưng học cái gì, học để làm gì, và học làm sao? Đề tài “học” này quá rộng, tôi xin tạm khu biệt lại trong một vài điểm, trong đó có điểm: rút hay không rút kinh nghiệm việc tổ chức việc học của nước khác, để tổ chức việc học cho mình tốt đẹp nhất. Trên điểm này, tôi xin nhắc đến hai lời bình về việc học của người xưa: đó là lời của các ông Nguyễn Trường Tộ và Dương Bá Trạc.
Trong Tiếng gọi đàn(Nghiêm Hàm ấn quán, Hà Nội 1925), ông Dương Bá Trạc viết:
Người ta ai là khỏi có cái phải bắt chước người, nhưng bắt chước người mà cũng cần phải có cái trí khôn quyết trạch của mình, bắt chước cái hay mà biết bỏ cái dở […]. Vả mô-phỏng của người mà lại cần phải có tự ý mình suy nghĩ ra: như người Pháp học văn-chương La Mã mà lập ra được hẳn một nền văn-học riêng; người Nhật học chữ Hán mà chế ra được thứ chữ bình-giả, phiến-giả, làm một lối chữ hoà-văn riêng của mình […]. Bắt chước người mà [bắt chước] khôn thì là sự tiện lợi thứ nhất, không gì chóng hay chóng khá bằng… […]. Người mình có cái thiên-tính hay bắt chước: cái gì cũng nhất-vị chỉ bắt chước người, nên bắt chước dại thì nhiều mà bắt chước khôn thì ít lắm. Bắt chước người Tàu học chữ Hán mà trong khoảng mấy ngàn năm chỉ học nhờ viết mướn, không hề nghĩ ra được một thứ chữ quốc-văn nào - trừ ra có một thứ chữ Nôm cũng viết bằng chữ Hán mà ai muốn viết thế nào thì viết, chưa thành lối chữ nhất định - […].
Người Tàu thờ ông thánh Quan, bà Thiên-hậu, kỷ niệm ông Khuất Bính, ông Giới Tử-Thôi, người mình cũng bắt chước thờ ông thánh Quan, bà Thiên-hậu, kỷ niệm ông Khuất Bính, ông Giới Tử-Thôi. Trong cái lúc thâu-thái được chút đỉnh luân lý, học-vấn, văn-chương, kỹ-nghệ […] thì bao nhiêu cái dại cái dở […], mình cũng nhắm mắt theo cho kỳ hết. Nhân thế mà bao nhiêu cái tinh-thần tự-lập, cái năng-lực sáng-tạo mất dần đi cả.
Gần sáu chục năm trước đó, ý của ông Nguyễn Trường Tộ cũng trong Tể cấp bát điều(Tám điều cứu vớt, viết năm 1867, bản dịch của Trần Lê Hữu trong Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ cuối thế kỷ XIX- Đặng Huy Vận, Chương Thâu - NXB Giáo dục 1961) cũng không khác mấy:
[…] Sự học của ta hiện nay những cái thày dạy, những cái học trò học đều là những việc đời xưa cả. Mặc dầu trong sách có chép vài việc thực tế nhưng mấy việc thực tế ấy không nói chi tiết rõ ràng và nó cũng chôn nốt theo với người xưa rồi, đâu có thể quật mả lên mà hỏi […]. Nước ta trên cũng có trời che, dưới cũng có đất chở […]. Nước ta cũng có tổ tiên mà sự tích còn lưu truyền lại […]. Các vị danh thần trong các triều đại trước của nước ta còn lưu lại biết bao công lao thành tích […], cũng có việc đáng nêu lên, sao không truyền tụng những gương tốt đó cho người ta phấn khởi bắt chước vùng lên […] mà cứ không kể đêm ngày luôn miệng kiêu réo Hàn Tín, Tiêu Hà của Trung Quốc, là những người đã chết từ mấy ngàn năm nay? Phải chăng hôm nay chúng ta còn mang ơn họ? Phải chăng người đời nay không bằng người đời xưa? Hay là muốn kêu gào họ sống lại? Học như vậy mà học đến bạc đầu, thật là một chuyện quái lạ!... Hiện nay trong nhân dân ta ít có ai để ý, thế mà từ già đến trẻ, từ trường công đế trường tư, ai nấy cứ tranh hơn thua nhau từng câu từng chữ, thật là một chuyện lạ đời! […]. Vì học thuật chưa thuần, cho nên gặp việc gì cũng đặt cái tư lợi của mình lên trên hết thảy, mà ít khi thực tâm làm việc để góp phần vào lợi ích chung. Sở dĩ làm hại cho mình, làm hại cho người là ở chỗ đó. Nói chung, sở dĩ học thuật không được sáng tỏ, một nửa là vì sách vở, một nửa là vì triều đình, nhưng tôi cũng chưa muốn đi sâu vào điều đó, vì sợ có quan ngại…
Sống vào những thời điểm mà việc học của nước nhà cần một sự cải cách, hai ông có lý khi phê bình cách học của ta, và nếu bình tĩnh mà xét, không thể chê rằng hai ông ghẻ lạnh với nền học vấn của nước nhà. Vả lại hai ông chủ trương không nên bắt chước mù quáng, nhưng các ông không hề chủ trương đúc rút kinh nghiệm nơi khác. Tôi nghĩ những sáng kiến vô lý cũng mang lại những tai hại không kém việc bắt chước mù quáng.
Trong Tế cấp bát điềuông Nguyễn Trường Tộ còn viết:
…Học là gì? Học tức là học cái chưa biết để mà biết, biết để mà làm. Mà làm việc gì, và làm ở đâu? Làm tức là làm những công việc thực tế trong nước hiện nay và để lại việc làm hữu dụng đó cho đời sau nữa […].
Ông viết vậy có lẽ vì ông thấy cái mục tiêu của việc học người thời đó có điều không ổn. Mà cái không ổn lớn nhất chính là cái khía cạnh “ngôi thứ” trong mục tiêu của việc học. Và phải chăng vì vấn đề ngôi thứ có một trọng lượng lớn, cho nên hình thức học thì rất nặng để ganh đua với nhau, còn nội dung thì bị coi nhẹ, nên bị lạc hướng? Tôi nhớ tới “Ấu học ngũ ngôn thi” (Thơ năm chữ dạy trẻ):
Vạn ban giai thử hạ
Duy hữu độc thư cao.
(nghĩa là: mọi nghề đều ở dưới, chỉ có nghề đọc sách là cao).
Như vậy chuyện khuyến học có nghĩa là khuyến khích học để có địa vị trong xã hội, kiểu “một người làm quan, cả họ được nhờ”, chứ không phải học để biết.
Quan niệm việc học trong sách Tam tự kinh, xem ra có phần nghiêm chỉnh hơn:
Ngọc bất trác, bất thành khí
Nhân bất học, bất tri lý.
(nghĩa là: Ngọc không mài dũa thì không thành đồ quí; người không học thì không biết lẽ phải). Nhưng chế biến theo kiểu cuốn Giáo khoa thư (lớp đồng ấu):
Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài
Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi,
Con người ta có khác gì,
Học hành dốt nát ngu si hư đời,
Những anh mít đặc thôi thời,
Còn ai mua chuộc đón mời làm chi!
Thì mục tiêu của việc học vẫn là sự mong được trọng vọng trong xã hội (“mua chuộc, đón mời”). Dường như vấn đề ngôi thứ còn đè nặng trong suy nghĩ của một số người Việt Nam hay gốc Việt Nam cho đến tận nay: thích thi đua cao thấp, lập luận cơ sở về bằng cấp dựa trên cao thấp, ngay cả vấn đề quan niệm đội ngũ nhà giáo giảng dạy cũng chưa thoát khỏi lập luận ngôi thứ này.
Để diễn tả thêm một ý, tôi xin trích vài câu tôi viết trên một tờ báo khác cách đây không lâu:
[…] Diện tích nước Việt Nam bằng 0,6 lần diện tích nước Pháp; dân số Việt Nam khoảng 1,3 lần dân số Pháp; cả hai nước đều có chính quyền tập trung (không phải là nước liên bang), như vậy là không khác lắm về các mặt vừa kể. Nhưng hiện nay, số luận án tiến sĩ bảo vệ ở Pháp hàng năm là khoảng trên 1 vạn [chưa kể số tiến sĩ tích luỹ từ trước]; còn ở Việt Nam thì chưa có mức đó. Nhưng vấn đề “ngôi thứ” ở Việt Nam còn đè quá nặng nên việc lựa chọn mặt nào lên tới mức khắt khe quá đáng hơn cả nước ngoài. Làm cho một số nhà khoa học trẻ ở Việt Nam, ở trong nước thì chưa được phong chức danh giáo sư, ra nước ngoài thì được người ta tuyển dụng làm giáo sư đại học. Với tình trạng như vậy, chưa thể nói rằng ở ta có tinh thần chiêu hiền đãi sĩ, cũng chưa thể nói rằng vấn đề đào tạo và sử dụng người ở Việt Nam là có hiệu suất.
[…] Tôi cũng xin được kể một câu chuyện. Khoảng 25 năm trước đây, một nhân vật cao cấp trong nước hỏi tôi nghĩ gì về khả năng có thể có một người Việt Nam sẽ được giải thưởng Nobel khoa học, và nếu có, thì sự việc đó ảnh hưởng như thế nào đến sự tiến triển của khoa học ở Việt Nam. Tôi trả lời rằng: “Nước người ta phát triển khoa học và công nghệ, có đội ngũ khoa học và kỹ thuật đông đảo, có trình độ văn hoá tương xứng, lúc đó sẽ nảy ra những nhà khoa học có khả năng được giải thưởng này. Còn như giả thử đem một nhà khoa học đã có giải thưởng này rồi, đặt vào một nước chưa phát triển, trong một môi trường không phù hợp, thì rốt cục người đó cũng chẳng làm được gì cho ai, mà lại trở thành vô hiệu cho chính bản thân mình”. Ngày nay, ý tôi muốn phát biểu là: không phải cứ ngồi đánh giá cao thấp, mà có thể nâng được trình độ khoa học của nước nhà lên. Phải chăng nếu việc tổ chức giáo dục đào tạo (trong đó có việc sử dụng nhà giáo đại học) được tiến hành sao cho hợp lý - và thoáng - thì nền khoa học của nước nhà sẽ tự nó được nâng cao?
Hiện nay, mục tiêu chính thức của việc học, ghi trong Luật giáo dục (vừa được Quốc hội khoá X thông qua ngày 2-12-1998) là: “đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng nhu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đó là mục tiêu chính thức trên văn bản.
Nhưng ở thời này, đa số còn ưu tiên nghĩ đến kinh tế, thương mại, mấy ai thực sự nghĩ đến cốt lõi của việc học.
---------------
(*) Sinh năm 1934, sang Pháp du học năm 1950, Bùi Trọng Liễu là Tiến sĩ Quốc gia toán học năm 1962, giáo sư Đại học ở Pháp từ 1963, hiện sống tại Pháp. GS Bùi Trọng Liễu đã có nhiều đóng góp cho việc giáo dục đại học ở nước nhà từ năm 1975 đến nay.
Nguồn: Xưa và Nay, số 91,tháng 5/2001