Công nghệ thông tin: Thương hiệu riêng và tiền đề cho công nghệ sinh học
Công nghệ thông tin
Hiện nay, nhiều sản phẩm công nghệ thông tin (CNTT) của sở KH&CN Đồng Nai đã trở thành thương hiệu riêng, chiếm ưu thế và giành trọn sự ưu tiên trên thị trường. Có thể kể đến các sản phẩm CNTT chất lượng cao, có khả năng thương mại hóa, góp phần phát triển thị trường khoa học và công nghệ như chữ ký điện tử và khóa thông minh USK, không chỉ là sản phẩm trí tuệ của riêng Đồng Nai mà còn trở thành thị trường của gần 40 đơn vị tỉnh thành trong cả nước. Tiến sỹ Phạm Văn Sáng, giám đốc sở, tác giả của đề tài cho biết: "nghiên cứu mô hình bộ chữ ký điện tử và chế tạo khóa thông minh điện tử để chứng thực chữ ký điện tử" lúc đầu chỉ nhằm 3 mục tiêu: xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 (ISO Online); áp dụng hệ thống đa phương tiện để thực hiện các chương trình ứng dụng CNTT; đào tạo và đào tạo lại cán bộ công chức để thích nghi với phương thức làm việc và lối sống điện tử. Ba mục tiêu trên khi đưa vào hoạt động đã nảy sinh bất cập, nhất là quá trình luân chuyển công văn trên mạng và kiểm nghiệm, chứng thực mức độ sát thực của văn bản. Do vậy, nhóm đã phải chế tạo khoa thông minh để đảm bảo độ an toàn thông tin và chứng thực tính xác thực của thông tin nên có hiệu quả to lớn về kinh tế, xã hội mà giá thành chỉ bằng ½ sản phẩm ngoại nhập cùng tính năng.
Cùng đó Văn phòng điện tử (M-Ofice); cổng an toàn thông tin trên công nghệ cách ly phi chuẩn (NSSP); phần mềm quản lý trực tuyến các đề tài dự án nghiên cứu và phát triển KH&CN; phòng họp, hội thảo đa chức năng; các chương trình quản lý KHCN trực tuyến trong các lĩnh vực quản lý tiêu chuẩn đo lường chất lượng; đăng ký nhãn hiệu hàng hóa; hội thi sáng tạo kỹ thuật; ứng dụng công nghệ VISAT-IP; xây dựng 40 trạm cung cấp đường truyền internet tốc độ cao cho những nơi chưa có đường truyền ADSL và là tỉnh đầu tiên đưa băng thông rộng về 100% số xã. Nhiều chương trình dự án đã được UBND tỉnh chấp thuận và đưa vào thực hiện, tạo tiềm lực cho KHCN, nhất là ngành đã tập trung đổi mới cơ chế quản lý KHCN, gắn nghiên cứu với thực tế, đưa nhanh các tiến bộ vào thực tế sản xuất và đời sống. Vì thế, đưa nhanh các tiến bộ vào thực tế sản xuất và đời sống. Vì thế, đã cung cấp được luận cứ khoa học để giúp tỉnh xây dựng và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh; xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ, tạo ra sản phẩm góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kỳ và quan trọng tạo tiền đề cho công nghệ sinh học, công nghệ chất lượng cao của tỉnh trong các giai đoạn sau.
Công nghệ sinh học và các hoạt động khác
CNTT là cơ sở, là bước đột phá và tạo thương hiệu cho KH&CN Đồng Nai. Đây cũng là tiền đề thiết thực để ngành tập trung vào lĩnh vực công nghệ sinh học (CNSH). Trung tâm nghiên cứu CNSH vừa được triển khai và thực hiện giai đoạn 1 từ nay đến 2015 tại Cẩm Mỹ, nhìn về tương lai của Đồng Nai mà sẽ phát triển trở thành trung tâm của khu vực. Dự kiến khi trung tâm hoàn thành và đi vào hoạt động sẽ giải quyết việc làm cho khoảng 10.000 lao động, chủ yếu tập trung vào nguồn lao động chất lượng cao.
Cũng trong thời gian qua, một số đề tài nghiên cứu trong lĩnh vực CNSH cũng được triển khai thực hiện và mang lại hiệu quả trong sản xuất nông, lâm, thủy sản tại địa phương như Bưởi Biên Hòa đặc sản Tân Triều, đã thực hiện phân vùng và quy hoạch cho cây bưởi tuyển chọn giống bưởi đường lá cam sạch bệnh vàng lá, cung cấp cây đầu dòng, xây dựng và nhân rộng các mô hình thâm canh tổng hợp, xen canh phục vụ du lịch sinh thái, tạo ra năng suất, chất lượng cao tại các xã Tân Bình, Bình Lợi, Phú Lý, Thiện Tâm, Tân An thuộc vùng bưởi Biên Hòa. Cùng đó, nhiều đề tài thuộc các lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn đã góp phần to lớn cho phát triển kinh tế xã hội tỉnh nhà.
Các hoạt động khác như quản lý công nghệ và sở hữu trí tuệ thực sự góp phần vào công việc sản xuất kinh doanh và hội nhập cho các doanh nghiệp. Đẩy mạnh quản lý tiêu chuẩn đo lường chất lượng vì một môi trường kinh doanh buôn bán lành mạnh. Mạng lưới thông tin KHCN được xây dựng và phát triển từ Sở đến 92 điểm cung cấp thông tin KHCN tại xã phường, thị trấn. Nguồn tin số hóa không ngừng được gia tăng để tích hợp trong các thư viện điện tử công nghệ nông thôn tại các điểm KHCN như trên 100.000 câu hỏi đáp về thông tin khoa học công nghệ, cơ sở dữ liệu của gần ba chục giống cây ăn trái có lợi thế cạnh tranh và xuất khẩu; cơ sở dữ liệu hỏi đáp về dịch hại cây trồng và cách sử dụng thuốc bảo vệ thực vật; gàn 1000 phim công nghệ nông thôn; trên 2000 phim khoa học, cơ sở dữ liệu của các chuyên gia tư vấn thông tin KHCN; cơ sở dữ liệu trên 20.000 biểu ghi luận án tiến sỹ, thạc sỹ bảo vệ trong và ngoài nước, trong đó đã có gần 8000 luận án đã được số hóa. Chương trình sáng tạo kỹ thuật đã được tổ chức lần thứ 14 mang thương hiệu riêng của sở với trên 500 giải pháp đã phát hiện được nhiều tiềm năng sáng tạo, nhiều giải pháp kỹ thuật mới góp phần cho sự phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh…
Những cơ sở trên là tiền đề để thời gian tới, sở KH&CN tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp lớn như: đổi mới cơ chế quản lý, phát triển tiềm lực khoa học công nghệ; xây dựng và phát triển thị trường KHCN, đẩy mạnh hội nhập khu vực và quốc tế về KHCN, trong đó tập trung phối hợp với các ngành đẩy mạnh việc đầu tư xây dựng khu Trung tâm nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học tỉnh Đồng Nai sau bước khởi động đầu năm 2010 tại huyện Cẩm Mỹ, tiếp xúc hoàn thành Trung tâm đo kiểm tại Nhơn Trạch và ưu tiên các chương trình, đề tài dự án nghiên cứu KHCN phục vụ nông nghiệp nông thôn, góp phần thực hiện thành công mô hình "4 có" trên địa bàn Đồng Nai.








