Cơn khát châu Á
Cơn khát ngày càng trầm trọng
Sự phát triển kinh tế đầy ấn tượng trong một vài thập niên gần đây khiến cho châu Á ngày càng “khát”. Vô số các nhà máy, khu công nghiệp mới mọc lên đòi hỏi lượng nước cung ứng khổng lồ. Nông nghiệp thâm canh, tăng vụ cũng cần có nước nhiều hơn. Đó là chưa kể khi đời sống người dân được nâng cao thì nhu cầu dùng nước cũng vì thế mà tăng lên. Nếu như năm 1980, một hộ gia đình Trung Quốc chỉ dùng hết trung bình 100 lít nước một ngày đêm thì đến năm 2000, con số này đã là 244 lít. Chính vì thế mà trong một năm mưa thuận gió hoà, đất nước đông dân nhất thế giới này cũng thiếu tới 40 tỉ mét khối nước.
Riêng mùa hè năm nay, trong đợt hạn hán tồi tệ nhất nhiều thập niên qua, ít nhất 18 triệu người Trung Quốc, chủ yếu là ở miền tây nam đã rơi vào cảnh thiếu nước uống. Còn nếu tính trung bình thì số người Trung Quốc không được sử dụng nước sạch cũng tương đương với số người cùng cảnh ngộ của toàn châu Phi. Trong khi đó, ở Ấn Độ, tại các thành phố lớn và hiện đại nhất như Delhi hay Chennai, nước máy cũng chỉ chảy khoảng 1 hoặc 2 tiếng mỗi ngày.
Ô nhiễm và nóng lên toàn cầu là những thủ phạm khác làm trầm trọng thêm cơn khát của châu Á. Tháng 11 năm ngoái, sự cố tràn hoá chất benzen, nitrobenzen và aniline ra sông Tùng Hoa những tưởng đã cho các nhà quản lý Trung Quốc nói riêng và châu Á nói chung một bài học đắt giá về việc bảo vệ nguồn nước. Nhưng chỉ mới 2 tuần trước, sông Hoàng Hà lại trở thành nạn nhân của ô nhiễm. Nước sông chuyển sang màu đỏ và bốc mùi khó chịu. Thủ phạm có lẽ là các nhà máy giấy và dệt nhuộm được xây dựng hai bên bờ sông. Băng tuyết trên núi và cao nguyên, nguồn nước dự trữ và nuôi dưỡng những con sông lớn nhất châu Á như sông Hằng, sông Mêkông, sông Dương Tử và Hoàng Hà đã tan chảy rất nhanh trong thời gian gần đây, kéo theo sự mất cân bằng về nguồn nước, lụt lội và hạn hán không theo quy luật.
Không sợ thiếu, chỉ sợ không biết cách quản lý
Đó chính là điều các nhà khoa học và các chuyên gia hoạch định chính sách nhấn mạnh khi đề cập đến một giải pháp cho cuộc khủng hoảng nước của châu Á. Bằng chứng là vẫn có những quốc gia ở châu lục này đạt được những thành công đáng kể trong việc điều tiết nguồn nước. Điển hình là Xingapo, một quốc đảo nhỏ bé mà nguồn nước ngọt chủ yếu dựa vào những đường ống dẫn từ nước láng giềng Malaixia. Biết rõ điểm yếu của mình, Xingapo đã đầu tư lớn cho việc xây dựng hệ thống thu gom và tái chế nước thải, biến lãnh thổ quốc gia này thành một vùng lưu vực khổng lồ. Hay Phnompenh (Campuchia), nơi mới một thập niên trước cứ 5 hộ gia đình mới có một hộ được dùng nước máy, nhờ những chính sách đúng đắn mà hiện nay đã có một trong những hệ thống cung cấp nước đô thị hiệu quả nhất trong khu vực các nước đang phát triển ở châu Á. Hay Thái Lan, với 100% các vùng nông thôn được tiếp cận với chương trình vệ sinh và nước sạch.
Tất nhiên, để đạt được những kết quả này, bên cạnh việc sẵn sàng đầu tư những nguồn kinh phí lớn, các chính phủ châu Á còn phải kiên quyết hy sinh nhiều chương trình phát triển công nghiệp và dành ra một phần quỹ đất nông nghiệp để phát triển rừng. Nói một cách khác, họ phải đánh đổi những lợi ích trước mắt vì mục tiêu lâu dài.
Nguồn: KH&ĐS Số 91 Thứ Hai 13/112006








