Có phải lịch sử bắt đầu cùng với chữ viết?
Chúng tôi xin giới thiệu tóm tắt cuộc tranh luận nói trên được đăng tải trên tạp chí Historia tháng 3 - 2001. Xin lưu ý với bạn đọc rằng ở đây hai nhà sử học chỉ nói đến những khái niệm của giới sử học đối với lịch sử châu Âu, nên những mốc tiền sử và lịch sử ở đây không phù hợp với lịch sử châu Á, là nơi đã phát minh chữ viết sớm hơn và các văn bản của người xưa được lưu truyền liên tục cho đến ngày nay.
“Ngay cả tin học cũng đang đặt ra những vấn đề cho việc truyền đạt lại với các thế hệ tương lai”
Jacques Paviot
(Giảng viên Đại học Paris IV - Sorbonne về Lịch sử Trung đại )
Ngay từ khi công trình lịch sử đầu tiên ra đời và truyền lại cho chúng ta ngày nay trong bộ Điều tra của Hérodote (nhà sử học Hy Lạp khoảng 484 – 420 tr.CN), tác giả đã sử dụng các nguồn tư liệu viết bên cạnh những tư liệu truyền miệng. Chữ viết luôn luôn là nguồn tư liệu tối ưu đối với nhà sử học. Lý do đơn giản nhất là lịch sử được diễn đạt thông qua ngôn ngữ viết và ưu tiên sử dụng những nguồn tư liệu viết đó. Cộng thêm vào đó là giá trị đích thực được thừa nhận đối với chữ viết trong các nền văn minh ra đời ở Cận Đông và xung quanh miền Đông Địa Trung Hải, một giá trị tuyệt đối đối với các tôn giáo của Kinh thánh, giá trị chính trị và kinh tế đối với các nhà nước đã bảo tổn những hồ sơ lưu trữ, và cả giá trị tượng trưng nữa. Tư liệu viết đó lúc đầu bao gồm những bản cổ sử, biên niên sử, thời luận, mà người ta không ngừng chép lại. Các nhà sử học lớn, từ Hérodote và Thucydide (Hy Lạp, 460-400 tr.CN) đến Tacite (La Mã, 55-120 s.CN) và Tite-Live (La Mã, 64 tr.CN - 17 s.CN) thời cổ đại, cho đến Grégeire de Tours và Eginhard rồi Jean Froissart thời Trung đại, từ Philippe de Commynes và Machiavel đến Michelet và Mommsen thời cận đại, đều ưu tiên các nguồn chữ viết và chép lại các tư liệu đó. Với tính chất kể truyện và tường thuật, những tư liệu đó cho phép chúng ta đi vào đời tư các nhân vật lớn, dựng lại ý nghĩ và hành động của họ, theo dõi một âm mưu và một diễn biến theo thứ tự thời gian.
Tất nhiên, ngay từ khởi thuỷ, nhà sử học đã cảm thấy chưa đủ. Họ phải quay sang các tư liệu tư pháp, các mệnh lệnh hay thư từ, nhưng vẫn nằm trong phạm vi lịch sử chính trị và ngoại giao. Sự ưu tiên đối với tư liệu viết đó đã đạt đến đỉnh cao ở thế kỷ XIX, khi Léopold de Ranke thiết lập những quy tắc phân tích văn bản, trở thành cơ sở thực hành cho sinh viên khoa sử.
Tuy nhiên, các nhà sử học luôn luôn đi tìm những nguồn sử liệu thành văn khác. Khoa nghiên cứu văn khắc, sau một thời gian tập tễnh, đã được Cyriaque d’Ancôme thiết lập vào cuối thời Trung đại, và sau đấy, Mommsen đã hoàn thiện. Thế kỷ XX còn đi tìm những nguồn tư liệu thành văn như: các bản hợp đồng, giấy tờ toà án, danh mục của các xứ đạo, địa bạ, thống kê lập từ thế kỷ XVIII, giúp cho nhà sử học ra khỏi lịch sử chính trị và ngoại giao để đi vào lịch sử kinh tế, xã hội, dân số. Tất nhiên, nhà sử học cũng phải dựa vào khảo cổ học. Nhưng không bao giờ những di vật lại có thể chỉ cho ta biết cái gì đã diễn ra trong đầu óc của tổ tiên chúng ta, nó chỉ giúp cho ta hiểu được những nét lớn về tín ngưỡng, về xã hội, về văn hoá mà thôi.
Ngày nay, máy vi tính đã làm đảo lộn những mặt nền để ghi lại chữ viết. Nếu bi ký học, văn bản cổ học giúp cho chúng ta đọc và nghiên cứu những tư liệu cổ và những mặt nền để viết chữ lên, từ đá đến kim loại, rồi từ da đến giấy, thì tin học, dù có khả năng rất lớn để thu thập ký ức của con người, lại đang đặt ra những vấn đề truyền đạt lại cho các thế hệ mai sau: nguy cơ bị mất hết dữ liệu do sự cố kỹ thuật hay những sự đột biến và phát triển không ngừng của các phần mềm. Làm thế nào để giữ lại các dữ liệu? Trong vài thập niên nữa hay vài thế kỷ sau, làm thế nào để truy cập những chương trình mà chúng ta đang dùng hiện nay? Phải chăng chúng ta đang bước vào thời kỳ hậu - hiện đại, khi yếu tố thời gian không còn giá trị nữa, và khi lịch sử bị thu hẹp lại thành một văn bản kể chuyện như là tiểu thuyết?
“Chữ viết không mang theo lịch sử mà chỉ làm cho lịch sử có khả năng thể hiện. Nó phục vụ cho lịch sử”
Pascal Picq
(Cổ nhân học và tiền sử học, giảng viên Collège de France)
Tiền sử và lịch sử, theo nghĩa hiện đại của nó, chỉ xuất hiện từ thế kỷ XIX. Chúng đều cùng một lò mà ra, đều có những tiến bộ khoa học như nhau, và đều có những lệch lạc tư tưởng như nhau. Chỉ khác nhau có một chữ đầu. Phải chăng cái khác nhau đó cũng đủ để cụ thể hoá một giai đoạn căn bản của lịch sử nhân loại? Tất nhiên là không phải như vậy.
Nước Pháp bước vào lịch sử từ cảng Marseille, với sự tiếp xúc của người Hy Lạp ở thế kỷ VI tr.CN, trong khi đó thì Paris đang còn ở trong thời kỳ tiền sử. Mấy thế kỷ sau, người Gôloa tiền sử xung đột với người La Mã lịch sử. Chúng ta biết ít về họ, bắt đầu từ thủ lĩnh Vercingestorix trong các ghi chép của viên tướng La Mã Jules César. Như vậy, tổ tiên Gôloa của người Pháp đã đi vào lịch sử nhờ những chữ viết của kẻ xâm lược. Tuy nhiên, họ vẫn tham gia tất cả vào cùng một lịch sử chung.
Chữ viết đánh dấu một giai đoạn đáng kể trong lịch sử các xã hội loài người. Các văn bản đã lưu lại những thông tin mà nếu không có nó thì không thể nào giữ được. Tuy nhiên, có phải lịch sử bắt đầu cùng với chữ viết không? Không. Những văn bản đầu tiên không phải là những bản tường thuật, mà rõ ràng là một kiểu ghi chép được các thành bang đầu tiên sáng tạo vì những nhu cầu trần tục hơn. Chúng cũng không phải là một nguồn thông tin không thể thay thế được. Hãy lùi lại với thời gian. Cách đây 32.000 năm, người Cro-Magnon đã vẽ trong hang động ở Chauvet. Họ diễn đạt trên vách đá nhận thức của họ về thế giới, trình bày một câu chuyện về tín ngưỡng của họ bằng nghệ thuật biểu trưng, đã được cách điệu, với những mô thức trừu tượng. Biểu tượng được thể hiện dưới mọi hình thức - ký hiệu ghi ý, ký hiệu bằng hình vẽ, tín hiệu - như vậy là sự sắp xếp có một ý nghĩa nào đó mà chúng ta không hiểu được. Mười lăm nghìn năm sau, những người khác, người homosapiens, đã chọn Lascaux để hình dung thế giới một cách khác. Như vậy, có một lịch sử biểu đạt trong thời kỳ tiền sử. Vậy những người đó muốn nói gì? Chúng ta không biết được, vì cái mà chúng ta thiếu, đúng ra là một câu chuyện kể.
Cuộc cách mạng lịch sử đó đã đến với văn minh Hy Lạp cùng Hérodote và Thucydide. Nhưng chuyện kể từ đó không ngừng mở ra không gian cho lịch sử. Nhưng dù sao, ý thức về lịch sử trong sự chấp nhận hai điều cơ bản đó là sự kiện và chuyện kể các sự kiện, không phải ở dân tộc nào cũng diễn ra như vậy. Riêng trong lịch sử châu Âu, đã có hai sự cố về lịch sử. Vì căn bản có thể mất đi do thời tiết, mà còn vì lí do ý thức hệ và sự can thiệp từ bên ngoài. Thư viện Alexandrie đã bị thiêu huỷ vì một tu sĩ Thiên chúa giáo chính thống muốn thủ tiêu những sách vở ngoại giáo. Chữ viết như vậy có thể xoá bỏ lịch sử.
Nếu cứ nói rằng lịch sử là chữ viết, thì tất nhiên sẽ đi đến chỗ cho rằng không thể có hành động lịch sử hay lịch sử không có chữ viết. Như vật không có nghĩa rằng lịch sử đã bắt đầu cùng với chữ viết. Chữ viết không mang trong nó lịch sử, mà chỉ làm cho lịch sử có khả năng biểu đạt. Chữ viết phục vụ cho lịch sử. Lịch sử là một sự ý thức về nhân loại và những biến đổi của nó, nó không ra đời cùng với chữ viết. Chữ viết không đẻ ra lịch sử cũng như công cụ đá đẽo không đem lại tiền sử. Nhưng nếu không có chữ viết thì chúng ta không thể đi đến sự ý thức đó được.
Nhà triết học George Steiner nhắc lại rằng đường parabôn của chúa Kitô viết tên mình bằng ngón tay trên cát rồi xoá đi. Và Steiner còn nhắc rằng hai trụ cột của tư tưởng phương Tây là Socrate và Kitô. Cả hai đều không để lại một văn bản chữ viết nào cả.
Nguồn: Xưa và Nay, số 91, tháng 5/2001, tr 26, 27








