Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 13/12/2011 20:37 (GMT+7)

Có một văn hóa chùa Việt Nam nơi đất Phật

NGƯỜI XÂY CHÙA

Ông quê Bến Tre. Cha mất sớm, đặt tên con là Lâm Trung Quốc với lời dặn: Lớn lên đi đâu, làm gì cũng phải nhớ Trung với Nước. Sáu tuổi bé Quốc theo me xuất gia lên Thất Sơn, được nhà sư trụ trì cứu khỏi bệnh nan y và quy dahnh là Huyền Diệu. Năm 1960, quê hương Đồng Khởi bị khủng bố, mẹ con chạy ra Đồng Nai. Diệu tham gia bảo vệ cuộc tự thiêu giữa Sài Gòn của Hòa thượng Thích Quảng Đức ngày 6-11-1963, bị bắt, kết án trục xuất khỏi nước. Cậu sang Pháp kiếm sống, được vào học trường Sorbone, đỗ mấy bằng, trở thành giáo sư thỉnh giảng tại nhiều học viện quốc tế Á, Âu, Mỹ…

Nhờ cơ duyên - như cách nói của mấy vị thị giả tháp tùng thầy Huyền Diệu ngày 20 - 4 - 2001 tại nhà ông Vũ Kỳ mà thấy nói rõ là ngưỡng mộ, tới thăm người thư ký riêng của Bác Hồ - tôi được làm quen với một nhà sư Việt kiều thật sự dày công đức với dân tộc và Phật giáo nước nhà. Thầy mời chúng tôi sang dự lễ lạc thành Việt Nam Phật quốc tự ở Bồ Đề Đạo Tràng (VNPQT - BĐĐT) và thăm ngôi chùa thứ hai đang xây dựng ở Lâm Tì Ni (phiên âm tiếng Nêpan là Lumbini). Đại tá an ninh Nguyễn Mộng Nhẫn, ký giả lão thành Hồng Trang kể nhiều chuyện như huyền thoại xung quanh “phép màu” dựng chùa nhờ ở tâm thiện của con người được trời Phật và hồn thiêng đất nước trì chú.

20 NĂM ỨNG NGHIỆM MỘT NGUYỆN CẦU

Năm 1967, được một GS người Pháp giúp đỡ lần đầu tiên đặt chân tới BĐĐT, anh sinh viên phật tử Huyền Diệu cảm nhận rõ ràng sự trỗi dậy của niềm tự tôn dân tộc. Đi thăm cả một vùng quần thể các kiến trúc đền chùa dân tộc nhiều nước, anh đặt câu hỏi: - Đạo Phật vào Việt Nam hơn 2000 năm, trước cả Trung Hoa, Nhật Bản, cả dân tộc quan niệm “Phật tại tâm”, “Tu tại gia”… sao tại đây lại không có mặt chùa Việt Nam? Rồi, đồng bào mình hành hương về đây, bơ vơ sao?

Phải làm gì để có được nơi trú chân cho người mình, dù ít gian tre lá? Nghĩ lại, nhưng những ngày lưu lại đây, anh đều tới ngồi cầu nguyện dưới gốc cây bồ đề xin được phù hộ độ trì để ngôi chùa quê hương sẽ sừng sững hiên ngang mang dáng dấp độc đáo Việt Nam, nhỏ thôi nhưng con cháu ngày nay xin Tổ tiên cho vươn cao khỏi lũy tre trên tầm cả đỉnh nóc đền đài các quốc gia giàu có bỏ công quỹ ra tài trợ.

Ước nguyện được chia sẻ trong các cộng đồng phật tử người Việt trên khắp thế giới, trước hết, bằng tên gọi Việt Nam Phật quốc tự:Đất nước, dân tộc có trước Phật giáo có sau… Tiền gom góp của các nhà hảo tâm, sự tích cóp qua nhiều năm đi dạy thuê, thầy mua dần đất giữa cánh đồng để sau thành làng chùa, mọi cây hoa, nhà cửa, vườn tược… phải như tại quê hương. Thiết kế tự vẽ, vật liệu xây dựng tự mua, cả đến rau đỗ, lúa khoai v.v… Thầy cũng tự trồng, thu hái và nấu nướng vào thời kỳ đầu “vạn sự khởi đầu nan”. Thấy lý luận rằng cũng bò gạo bát cơm ấy, đĩa rau, tô canh… ấy, nhưng chỉ thiệt là ngon, bổ dưỡng khi người làm ra, nấu nướng… dành cả tình cảm, tâm nguyện mong người ăn ngon miệng thì bữa ăn mới ngon.

Thầy kể, khi bay từ Paris sang tay không, thầy phải xin ở nhờ một phòng xép trong chùa Miến Điện của Hòa thượng U Nyanada - Chủ tịch Liên đoàn Phật giáo quốc tế. Chỉ ít tháng sau ra “làng chùa” dựng lều khởi công là tiếng lành đồn xa: người, của từ các nước góp sức về công trường - nơi tụ hội của niềm tự hào dân tộc. Khó nhất là ý tưởng thiết kế làm sao để mọi chi tiết trong ngoài chùa chu vi 3,5 ha, tất thảy đều là “đặc sản” quê ta. Thầy liên tục bay về nước tham quan, học hỏi các chùa cổ miền Bắc, tìm nghệ nhân, nguyên vật liệu, mời, đặt mua từ bộ cửa, đồ thời, tượng Phật… chuyển qua đường biển sang xứ Ấn luôn biến động, đầy bất an.

Trong vườn chùa đường đi lối lại quanh co bên các hàng cây, hoa, quả, rau, đậu đủ loại, có cả ruộng lúa, bờ ao… Khu khuôn viên có Chánh điện cao 24m ba tầng, Tháp Vạn Phật, Quan Âm Đài mang vóc dáng chùa Một Cột, gác chuông treo Đại Hồng Chung nặng 2,5 tấn gác trống có trống Sấm đường kính 2m… tất cả đều từ trong nước đưa sang.

Lần đầu tới đây thật cảm động, từ xa mấy cây số chúng tôi đã quên hết mệt nhọc vì xe quăng quật “ổ gà, ổ voi”, khi nhận ra bên đường có biển chỉ dẫn VNPQT nổi bật bản đồ hình chữ S. Mọi người quên cả ngày áp Tết Qúy Mùi (2003) đang đến gần, đêm tối đang ập đến, cùng reo vang: “Đến nhà rồi! Đến nhà rồi!”…

Vậy là 20 năm phát nguyện, 16 năm xây dựng, nên một VNPQT thứ nhất tại Ấn Độ.

VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG

Hồi kỳ của Đường Tam Tạng còn lưu giữ, có ghi vào năm 563 trước Công nguyên, hoàng hậu xứ Tịnh Phạn (nay thuộc Nepal) theo tục lệ, sắp đến ngày lâm bồn phải về quê sinh con, mới tới làng Lumbini thì chuyển dạ. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh dưới gốc cây Vô Ưu. Năm 250 TCN Hoàng đế Ashoka cho xây một trụ đá để ghi dấu nơi linh địa. Vào thế kỷ thứ 7, khi Huyền Trang sang đây, đền đài, cung điện, dấu tích Phật còn khá nhiều. Nhưng tới thế kỷ 12 đạo Phật gần như bị xóa sạch. Lumbini biến thành vùng đất hoang vu. Mãi bảy trăm năm sau, giới khảo cổ học phương Tây mới phát hiện “trụ đá biết nói”, đã dựng lại và trên thế giới bắt đầu hàng loại lời kêu gọi khôi phục lại Thánh địa Phật giáng sinh có tầm cỡ như Vatican của Thiên chúa giáo, Mecca của Hồi giáo, Benares của Ấn Độ giáo…

Song, tất cả chỉ rơi vào im lặng.

Cũng dịp từ Pháp sang, năm 1967, anh sinh viên phật tử Huyền Diệu tới Lumbini, đau xót nhìn cảnh hoang tàn, quanh trụ đá cỏ dại um tùm đầy những bãi phân. Anh lượn vòng quanh trụ đá, tìm chỗ ngồi tụng niệm, rồi lại qua bờ bên kia vũng hồ cạn bên gốc Vô Ưu cầu khấn. Rồi đó, dù đang dốc tâm với công việc bên BĐĐT, thầy vẫn ngày đêm nung nấu ý chí và chia sẻ thông tin, nhờ bạn hữu, học trò trong các tổ chức quốc tế và Nepal về mong muốn khôi phục Lumbini…

Thế rồi 27 năm sau, 1993, khi thầy đang sa lầy về kinh phí và công việc bên chùa Ấn Độ thì Quốc Vuong Nepal Birendra phái máy bay riêng sang BĐĐT mời thầy qua Lumbini nhận đất xây chùa. Thầy mừng lắm, đi ngay. Ai can ngăn cũng không được, có anh nặng lời: “Thầy là kẻ hiếu danh, thích nổi tiếng sao?”.

Tại thủ đo Kathmandu, thấy được nghênh đón như một thượng khách, có trực thăng đưa về Lumbini để thầy tự chọn nơi xây chùa, và hôm sau 24 - 9 - 1993 làm lễ động thổ ngay. Trước đông đủ quan khách Nhà nước, Đoàn ngoại giao, Liên đoàn Phật giáo từ Ấn Độ sang… ngài Giáo sư Asharam Skaya thay mặt Chính phủ và Phật giáo Nepal tuyên bố rằng: Ngày khởi sự xây cất ngôi chùa quốc tế đầu tiên này sẽ mãi mãi đi vào lịch sử vàng son Phật giáo thế giới vì Việt Nam đã đi tiên phong để khôi phục Thánh địa đầy khó khăn này. Hy vọng và khẩn thiết kêu gọi các nước theo gương sáng của Việt Nam hôm nay…

Sau lễ khởi công, thầy quyết định ở lại cắm lều. Thầy cả U Nyanada hỏi trong túi có bao nhiêu tiền và khuyên “mạo hiểm lắm: giữa hoang vu nhiều thú dữ và bọn dị giáo vẫn rắp tâm triệt phá việc hồi sinh Lumbini”.Thầy thưa “Có 60 USD đủ dựng chòi ở, rồi sẽ tiếp tế”. Nhưng 7 lần bị mưu sát thì thầy không lường trước được. Đến lần thứ 8, thầy nghe động lại lẻn ra cửa bí mật, tên sát nhân đã nhận tiền thuê, liền chạy sang chùa Nhật Bản đâm chết sư trụ trì Yutaka Nabatame và chú tiểu hầu cận. Chính phủ Nhật can thiệp phái nhóm đặc nhiệm sang, 15 ngày sau bắt được hung thủ. Thầy liền đem tiền, vác bao gạo đến nhà úy lạo vợ con hắn và xin giảm án vì chẳng qua do gia cảnh thúc bách, tội nặng ở tên chủ mưu…

Thầy cầu mong Lumbini là đế đô Phật giáo thế giới, Nepal tiến bộ, nên quyết định hình thành Ủy ban sứ giả quốc tếđể đi các nước, kể cả Mỹ và Nga hô hào tham gia phục hồi Lumbini thành một Liên hiệp quốc Phật tự,một đặc khu phát triển hàng đầu về mọi mặt kinh tế, văn hóa, du lịch v.v… dưới chân núi tuyết Hy Mã Lạp Sơn, gần kề Ấn Độ. Hơn 20 năm trước hưởng ứng. Chùa cạnh ta như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… Nhà nước xây dựng cực kỳ quy mô, cũng chỉ 3, 4 năm. VNPQT ở đây kéo dài 12 năm, hơn hẳn ở BĐĐT từ bề thế đến chất lượng về nội dung văn hóa truyền thống và hiện đại gắn chặt với dân tộc. Chẳng hạn, từ đường cái qua cầu một cái hào vào cửa Tam quan, lại qua cầu, bên dưới là bản đồ đắp nổi trên mặt hồ sen, khách coi như đi từ Nam lên Bắc, trước mặt hướng lên Chánh điện, xung quanh đều là những cảnh quan danh thắng của Tổ quốc quê hương…

Thế nhưng, trong con mắt của người Nepal, công đức lớn lao, tình cảm và sự tri ân đối với người Việt Nam còn cao quý hơn ở những hoạt động mang nhiều ý nghĩa cho tương lai của đất nước họ.

PHẬT DẠY: TỪ BI CẦN TRÍ TUỆ

Tục ngữ ta có câu “Đất lành chim đậu”. Gian nhà lá thầy dựng ở được một năm để xây chùa thì có đôi chim Hồng hạc (Sarus Crane) bay đến đợi trước cửa. Chim cao gần 2m, nặng cả chục ký. Thầy cho ăn, tỏ tình cảm. Chim từ đó phát triển từng đôi, ở riêng từng cánh đồng. Bọn săn chim, trộm trứng hoành hành. Thầy liên hệ địa phương bảo vệ. Một lần, đi đếm chim, cho ăn, thầy đến bên bờ sông “Oan nghiệt”, thấy bà con đôi bờ đứng nhìn dòng lũ cuồn cuộn đã cướp đi nhiều sinh mạng, thầy quyết định đưa lên mạng tin này, nhờ xa gần hảo tâm góp tiền xây cầu.

Kết quả sau 3 tháng xây xong cây cầu, tiền quyên góp dư ra 98.000 USD, thầy kiên quyết trả lại cho mọi người hảo tâm. Vợ chồng ông Bộ trưởng Y tế Nepal mang quà đến cảm ơn. Thầy không nhận mà đề nghị, xây cho một nhà thương gần cầu. Nhà thương người nghèo xây xong trong ít tháng. Ngày 16-1-2001 nhân dân làng Lankapur và cả quận Rupandeli kéo về chân cầu mở hội thông cầu. Chính quyền chấp nhận ý nguyện của nhân dân thông qua hai quyết định: Hàng năm lấy ngày 16-2 làm ngày hội cầu, và cây cầu mang tên “cây cầu tình thương Việt Nam ”…

Mới sau hơn 10 năm bộ mặt Lumbini đã khác hẳn. Liên đoàn Phật giáo quốc tế bầu thầy Huyền Diệu làm Chủ tịch, gần 20 chùa được hưởng đặc quyền miễn trừ ngoại giao. Chủ tịch hô hào các chùa hoạt động từ thiện, VNPQT đi đầu, nhiều nước làm theo rất tích cực như Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan… các chùa đều theo ý thầy: việc phát gạo, cấp tiền, tặng vật… chỉ là giải pháp cấp thời, phải “giao cần câu, bầy cách câu được cá chứ không cho cá…”. Thầy quan niệm: Làm từ thiện không chỉ đơn giản có tiền và tấm lòng, mà phải hiểu tường tận đối tượng cần giúp đỡ, phong tục, tập quán ở địa phương chia sẻ vui buồn để không gây xáo trộn gì trong nếp sống nơi đang yên bình.

Thầy nêu nhiều bài học rõ nhất từ việc xây cầu đối với nhà giàu và mấy ông quan làng, xã. Học có ô tô, xe kéo, muốn cầu xây to rộng. Thầy dứt khoát xây 1,3m phục vụ đi lại của người nghèo. Họ đòi giao tiền để tự làm, tự thuê thiết kế, mua vật liệu, đến thuê thi công. Thầy nói: Không, để nhân dân tham gia lao động, được giám sát, bảo vệ cầu. Xây cầu xong họ vòi vĩnh tiếp: Đề nghị thầy đắp cho con đường 2km từ đường lớn tới cầu, xã nọ, làng kia xin tiền làm trường học v.v… Thầy đều vận dụng cách làm từ trong nước: Đã vì dân thì phải do dân và của dân, cảnh giác với bọn trục lợi…

Việc phân chia đẳng cấp sang hèn, giàu nghèo trong xã hội ở Ấn Độ, Nepal còn nặng nề, bất công. Những việc làm của chùa Việt Nam là những bài học giáo dục lớp trẻ hết sức quý báu, làm họ xích lại gần nhau, xã hội hòa đồng tốt đẹp hơn. Nhớ hôm khởi công xây cầu, GS Rewanta - Chủ tịch Hội Maha Bồ Đềtỏ ý với thầy không tin việc làm cầu sẽ suôn sẻ. GS mách thầy rằng chính Chủ tịch liên xã Chanta Ram đã bỏ tiền hối lộ các kỹ sư xây cầu rộng ra để máy cày, ô tô của nhà anh ta qua lại được, nếu không anh ta sẽ phá… Nay cầu hoàn thành, nhiều bậc cha mẹ lấy gương nhà sư Việt Nam để dạy bảo con cháu, rằng người ta ở một đất nước xa lạ mà đến đây làm điều tốt cho dân làng thì dân làng cũng phải nghĩ sao về trách nhiệm của mình với làng mình chứ!

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.