Có một văn hóa chùa Việt Nam nơi đất Phật
NGƯỜI XÂY CHÙA
Ông quê Bến Tre. Cha mất sớm, đặt tên con là Lâm Trung Quốc với lời dặn: Lớn lên đi đâu, làm gì cũng phải nhớ Trung với Nước. Sáu tuổi bé Quốc theo me xuất gia lên Thất Sơn, được nhà sư trụ trì cứu khỏi bệnh nan y và quy dahnh là Huyền Diệu. Năm 1960, quê hương Đồng Khởi bị khủng bố, mẹ con chạy ra Đồng Nai. Diệu tham gia bảo vệ cuộc tự thiêu giữa Sài Gòn của Hòa thượng Thích Quảng Đức ngày 6-11-1963, bị bắt, kết án trục xuất khỏi nước. Cậu sang Pháp kiếm sống, được vào học trường Sorbone, đỗ mấy bằng, trở thành giáo sư thỉnh giảng tại nhiều học viện quốc tế Á, Âu, Mỹ…
Nhờ cơ duyên - như cách nói của mấy vị thị giả tháp tùng thầy Huyền Diệu ngày 20 - 4 - 2001 tại nhà ông Vũ Kỳ mà thấy nói rõ là ngưỡng mộ, tới thăm người thư ký riêng của Bác Hồ - tôi được làm quen với một nhà sư Việt kiều thật sự dày công đức với dân tộc và Phật giáo nước nhà. Thầy mời chúng tôi sang dự lễ lạc thành Việt Nam Phật quốc tự ở Bồ Đề Đạo Tràng (VNPQT - BĐĐT) và thăm ngôi chùa thứ hai đang xây dựng ở Lâm Tì Ni (phiên âm tiếng Nêpan là Lumbini). Đại tá an ninh Nguyễn Mộng Nhẫn, ký giả lão thành Hồng Trang kể nhiều chuyện như huyền thoại xung quanh “phép màu” dựng chùa nhờ ở tâm thiện của con người được trời Phật và hồn thiêng đất nước trì chú.
20 NĂM ỨNG NGHIỆM MỘT NGUYỆN CẦU
Năm 1967, được một GS người Pháp giúp đỡ lần đầu tiên đặt chân tới BĐĐT, anh sinh viên phật tử Huyền Diệu cảm nhận rõ ràng sự trỗi dậy của niềm tự tôn dân tộc. Đi thăm cả một vùng quần thể các kiến trúc đền chùa dân tộc nhiều nước, anh đặt câu hỏi: - Đạo Phật vào Việt Nam hơn 2000 năm, trước cả Trung Hoa, Nhật Bản, cả dân tộc quan niệm “Phật tại tâm”, “Tu tại gia”… sao tại đây lại không có mặt chùa Việt Nam? Rồi, đồng bào mình hành hương về đây, bơ vơ sao?
Phải làm gì để có được nơi trú chân cho người mình, dù ít gian tre lá? Nghĩ lại, nhưng những ngày lưu lại đây, anh đều tới ngồi cầu nguyện dưới gốc cây bồ đề xin được phù hộ độ trì để ngôi chùa quê hương sẽ sừng sững hiên ngang mang dáng dấp độc đáo Việt Nam, nhỏ thôi nhưng con cháu ngày nay xin Tổ tiên cho vươn cao khỏi lũy tre trên tầm cả đỉnh nóc đền đài các quốc gia giàu có bỏ công quỹ ra tài trợ.
Ước nguyện được chia sẻ trong các cộng đồng phật tử người Việt trên khắp thế giới, trước hết, bằng tên gọi Việt Nam Phật quốc tự:Đất nước, dân tộc có trước Phật giáo có sau… Tiền gom góp của các nhà hảo tâm, sự tích cóp qua nhiều năm đi dạy thuê, thầy mua dần đất giữa cánh đồng để sau thành làng chùa, mọi cây hoa, nhà cửa, vườn tược… phải như tại quê hương. Thiết kế tự vẽ, vật liệu xây dựng tự mua, cả đến rau đỗ, lúa khoai v.v… Thầy cũng tự trồng, thu hái và nấu nướng vào thời kỳ đầu “vạn sự khởi đầu nan”. Thấy lý luận rằng cũng bò gạo bát cơm ấy, đĩa rau, tô canh… ấy, nhưng chỉ thiệt là ngon, bổ dưỡng khi người làm ra, nấu nướng… dành cả tình cảm, tâm nguyện mong người ăn ngon miệng thì bữa ăn mới ngon.
Thầy kể, khi bay từ Paris sang tay không, thầy phải xin ở nhờ một phòng xép trong chùa Miến Điện của Hòa thượng U Nyanada - Chủ tịch Liên đoàn Phật giáo quốc tế. Chỉ ít tháng sau ra “làng chùa” dựng lều khởi công là tiếng lành đồn xa: người, của từ các nước góp sức về công trường - nơi tụ hội của niềm tự hào dân tộc. Khó nhất là ý tưởng thiết kế làm sao để mọi chi tiết trong ngoài chùa chu vi 3,5 ha, tất thảy đều là “đặc sản” quê ta. Thầy liên tục bay về nước tham quan, học hỏi các chùa cổ miền Bắc, tìm nghệ nhân, nguyên vật liệu, mời, đặt mua từ bộ cửa, đồ thời, tượng Phật… chuyển qua đường biển sang xứ Ấn luôn biến động, đầy bất an.
Trong vườn chùa đường đi lối lại quanh co bên các hàng cây, hoa, quả, rau, đậu đủ loại, có cả ruộng lúa, bờ ao… Khu khuôn viên có Chánh điện cao 24m ba tầng, Tháp Vạn Phật, Quan Âm Đài mang vóc dáng chùa Một Cột, gác chuông treo Đại Hồng Chung nặng 2,5 tấn gác trống có trống Sấm đường kính 2m… tất cả đều từ trong nước đưa sang.
Lần đầu tới đây thật cảm động, từ xa mấy cây số chúng tôi đã quên hết mệt nhọc vì xe quăng quật “ổ gà, ổ voi”, khi nhận ra bên đường có biển chỉ dẫn VNPQT nổi bật bản đồ hình chữ S. Mọi người quên cả ngày áp Tết Qúy Mùi (2003) đang đến gần, đêm tối đang ập đến, cùng reo vang: “Đến nhà rồi! Đến nhà rồi!”…
Vậy là 20 năm phát nguyện, 16 năm xây dựng, nên một VNPQT thứ nhất tại Ấn Độ.
VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG
Hồi kỳ của Đường Tam Tạng còn lưu giữ, có ghi vào năm 563 trước Công nguyên, hoàng hậu xứ Tịnh Phạn (nay thuộc Nepal) theo tục lệ, sắp đến ngày lâm bồn phải về quê sinh con, mới tới làng Lumbini thì chuyển dạ. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh dưới gốc cây Vô Ưu. Năm 250 TCN Hoàng đế Ashoka cho xây một trụ đá để ghi dấu nơi linh địa. Vào thế kỷ thứ 7, khi Huyền Trang sang đây, đền đài, cung điện, dấu tích Phật còn khá nhiều. Nhưng tới thế kỷ 12 đạo Phật gần như bị xóa sạch. Lumbini biến thành vùng đất hoang vu. Mãi bảy trăm năm sau, giới khảo cổ học phương Tây mới phát hiện “trụ đá biết nói”, đã dựng lại và trên thế giới bắt đầu hàng loại lời kêu gọi khôi phục lại Thánh địa Phật giáng sinh có tầm cỡ như Vatican của Thiên chúa giáo, Mecca của Hồi giáo, Benares của Ấn Độ giáo…
Song, tất cả chỉ rơi vào im lặng.
Cũng dịp từ Pháp sang, năm 1967, anh sinh viên phật tử Huyền Diệu tới Lumbini, đau xót nhìn cảnh hoang tàn, quanh trụ đá cỏ dại um tùm đầy những bãi phân. Anh lượn vòng quanh trụ đá, tìm chỗ ngồi tụng niệm, rồi lại qua bờ bên kia vũng hồ cạn bên gốc Vô Ưu cầu khấn. Rồi đó, dù đang dốc tâm với công việc bên BĐĐT, thầy vẫn ngày đêm nung nấu ý chí và chia sẻ thông tin, nhờ bạn hữu, học trò trong các tổ chức quốc tế và Nepal về mong muốn khôi phục Lumbini…
Thế rồi 27 năm sau, 1993, khi thầy đang sa lầy về kinh phí và công việc bên chùa Ấn Độ thì Quốc Vuong Nepal Birendra phái máy bay riêng sang BĐĐT mời thầy qua Lumbini nhận đất xây chùa. Thầy mừng lắm, đi ngay. Ai can ngăn cũng không được, có anh nặng lời: “Thầy là kẻ hiếu danh, thích nổi tiếng sao?”.
Tại thủ đo Kathmandu, thấy được nghênh đón như một thượng khách, có trực thăng đưa về Lumbini để thầy tự chọn nơi xây chùa, và hôm sau 24 - 9 - 1993 làm lễ động thổ ngay. Trước đông đủ quan khách Nhà nước, Đoàn ngoại giao, Liên đoàn Phật giáo từ Ấn Độ sang… ngài Giáo sư Asharam Skaya thay mặt Chính phủ và Phật giáo Nepal tuyên bố rằng: Ngày khởi sự xây cất ngôi chùa quốc tế đầu tiên này sẽ mãi mãi đi vào lịch sử vàng son Phật giáo thế giới vì Việt Nam đã đi tiên phong để khôi phục Thánh địa đầy khó khăn này. Hy vọng và khẩn thiết kêu gọi các nước theo gương sáng của Việt Nam hôm nay…
Sau lễ khởi công, thầy quyết định ở lại cắm lều. Thầy cả U Nyanada hỏi trong túi có bao nhiêu tiền và khuyên “mạo hiểm lắm: giữa hoang vu nhiều thú dữ và bọn dị giáo vẫn rắp tâm triệt phá việc hồi sinh Lumbini”.Thầy thưa “Có 60 USD đủ dựng chòi ở, rồi sẽ tiếp tế”. Nhưng 7 lần bị mưu sát thì thầy không lường trước được. Đến lần thứ 8, thầy nghe động lại lẻn ra cửa bí mật, tên sát nhân đã nhận tiền thuê, liền chạy sang chùa Nhật Bản đâm chết sư trụ trì Yutaka Nabatame và chú tiểu hầu cận. Chính phủ Nhật can thiệp phái nhóm đặc nhiệm sang, 15 ngày sau bắt được hung thủ. Thầy liền đem tiền, vác bao gạo đến nhà úy lạo vợ con hắn và xin giảm án vì chẳng qua do gia cảnh thúc bách, tội nặng ở tên chủ mưu…
Thầy cầu mong Lumbini là đế đô Phật giáo thế giới, Nepal tiến bộ, nên quyết định hình thành Ủy ban sứ giả quốc tếđể đi các nước, kể cả Mỹ và Nga hô hào tham gia phục hồi Lumbini thành một Liên hiệp quốc Phật tự,một đặc khu phát triển hàng đầu về mọi mặt kinh tế, văn hóa, du lịch v.v… dưới chân núi tuyết Hy Mã Lạp Sơn, gần kề Ấn Độ. Hơn 20 năm trước hưởng ứng. Chùa cạnh ta như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… Nhà nước xây dựng cực kỳ quy mô, cũng chỉ 3, 4 năm. VNPQT ở đây kéo dài 12 năm, hơn hẳn ở BĐĐT từ bề thế đến chất lượng về nội dung văn hóa truyền thống và hiện đại gắn chặt với dân tộc. Chẳng hạn, từ đường cái qua cầu một cái hào vào cửa Tam quan, lại qua cầu, bên dưới là bản đồ đắp nổi trên mặt hồ sen, khách coi như đi từ Nam lên Bắc, trước mặt hướng lên Chánh điện, xung quanh đều là những cảnh quan danh thắng của Tổ quốc quê hương…
Thế nhưng, trong con mắt của người Nepal, công đức lớn lao, tình cảm và sự tri ân đối với người Việt Nam còn cao quý hơn ở những hoạt động mang nhiều ý nghĩa cho tương lai của đất nước họ.
PHẬT DẠY: TỪ BI CẦN TRÍ TUỆ
Tục ngữ ta có câu “Đất lành chim đậu”. Gian nhà lá thầy dựng ở được một năm để xây chùa thì có đôi chim Hồng hạc (Sarus Crane) bay đến đợi trước cửa. Chim cao gần 2m, nặng cả chục ký. Thầy cho ăn, tỏ tình cảm. Chim từ đó phát triển từng đôi, ở riêng từng cánh đồng. Bọn săn chim, trộm trứng hoành hành. Thầy liên hệ địa phương bảo vệ. Một lần, đi đếm chim, cho ăn, thầy đến bên bờ sông “Oan nghiệt”, thấy bà con đôi bờ đứng nhìn dòng lũ cuồn cuộn đã cướp đi nhiều sinh mạng, thầy quyết định đưa lên mạng tin này, nhờ xa gần hảo tâm góp tiền xây cầu.
Kết quả sau 3 tháng xây xong cây cầu, tiền quyên góp dư ra 98.000 USD, thầy kiên quyết trả lại cho mọi người hảo tâm. Vợ chồng ông Bộ trưởng Y tế Nepal mang quà đến cảm ơn. Thầy không nhận mà đề nghị, xây cho một nhà thương gần cầu. Nhà thương người nghèo xây xong trong ít tháng. Ngày 16-1-2001 nhân dân làng Lankapur và cả quận Rupandeli kéo về chân cầu mở hội thông cầu. Chính quyền chấp nhận ý nguyện của nhân dân thông qua hai quyết định: Hàng năm lấy ngày 16-2 làm ngày hội cầu, và cây cầu mang tên “cây cầu tình thương Việt Nam ”…
Mới sau hơn 10 năm bộ mặt Lumbini đã khác hẳn. Liên đoàn Phật giáo quốc tế bầu thầy Huyền Diệu làm Chủ tịch, gần 20 chùa được hưởng đặc quyền miễn trừ ngoại giao. Chủ tịch hô hào các chùa hoạt động từ thiện, VNPQT đi đầu, nhiều nước làm theo rất tích cực như Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan… các chùa đều theo ý thầy: việc phát gạo, cấp tiền, tặng vật… chỉ là giải pháp cấp thời, phải “giao cần câu, bầy cách câu được cá chứ không cho cá…”. Thầy quan niệm: Làm từ thiện không chỉ đơn giản có tiền và tấm lòng, mà phải hiểu tường tận đối tượng cần giúp đỡ, phong tục, tập quán ở địa phương chia sẻ vui buồn để không gây xáo trộn gì trong nếp sống nơi đang yên bình.
Thầy nêu nhiều bài học rõ nhất từ việc xây cầu đối với nhà giàu và mấy ông quan làng, xã. Học có ô tô, xe kéo, muốn cầu xây to rộng. Thầy dứt khoát xây 1,3m phục vụ đi lại của người nghèo. Họ đòi giao tiền để tự làm, tự thuê thiết kế, mua vật liệu, đến thuê thi công. Thầy nói: Không, để nhân dân tham gia lao động, được giám sát, bảo vệ cầu. Xây cầu xong họ vòi vĩnh tiếp: Đề nghị thầy đắp cho con đường 2km từ đường lớn tới cầu, xã nọ, làng kia xin tiền làm trường học v.v… Thầy đều vận dụng cách làm từ trong nước: Đã vì dân thì phải do dân và của dân, cảnh giác với bọn trục lợi…
Việc phân chia đẳng cấp sang hèn, giàu nghèo trong xã hội ở Ấn Độ, Nepal còn nặng nề, bất công. Những việc làm của chùa Việt Nam là những bài học giáo dục lớp trẻ hết sức quý báu, làm họ xích lại gần nhau, xã hội hòa đồng tốt đẹp hơn. Nhớ hôm khởi công xây cầu, GS Rewanta - Chủ tịch Hội Maha Bồ Đềtỏ ý với thầy không tin việc làm cầu sẽ suôn sẻ. GS mách thầy rằng chính Chủ tịch liên xã Chanta Ram đã bỏ tiền hối lộ các kỹ sư xây cầu rộng ra để máy cày, ô tô của nhà anh ta qua lại được, nếu không anh ta sẽ phá… Nay cầu hoàn thành, nhiều bậc cha mẹ lấy gương nhà sư Việt Nam để dạy bảo con cháu, rằng người ta ở một đất nước xa lạ mà đến đây làm điều tốt cho dân làng thì dân làng cũng phải nghĩ sao về trách nhiệm của mình với làng mình chứ!








